Quyển Nhất

Thứ Bảy, 17 Tháng Sáu 20235:49 CH(Xem: 361)
Quyển Nhất
PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ KINH
Chánh Trí dịch và giảng giải 
Khởi sự giảng tại Chùa Xá Lợi, đêm Rằm tháng 8 năm Canh Tý (nhằm 5.10.1960)

QUYỂN NHẤT

I. NƠI THUYẾT KINH VÀ THÀNH PHẦN PHÁP HỘI

 

Tôi nghe như vầy: Một lúc nọ, Phật ở tại thành Vương-xá, trong hang núi Kỳ-xà, cùng với các đại Tỳ-kheo, đông một vạn hai nghìn người, toàn là bậc Thánh đã đến chỗ thần thông. Đó là các Tôn giả Liễu-bản-tế, Chánh-nguyện, Chánh-Ngữ, Đại-Hiệu, Nhân-Hiền, Ly-Cấu, Danh-Văn, Thiện-Thực, Cụ-Túc, Ngưu-Vương, Ưu-lâu-tân-loa Ca-Diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-Liên, Kiếp-tân-Na, Đại-Trụ, Đại-tịnh-Chí, Ma-ha Châu-Na, Mãn-nguyện-Tử, Ly-Chướng, Lưu-Quán, Kiên-Phục, Diện-Vương, Dị-Thừa, Nhân-Tính, Gia-Lạc, Thiện-Lai, La-Vân, A-Nan…đều là bậc trên trước như thế cả.

 

Lại cũng có các Bồ tát Đại-thừa như Phổ-Hiền, Diệu-Đức, Từ-Thị…toàn là những Bồ tát của Hiền-kiếp. Lại có mười sáu Chánh-sĩ Hiền-hộ là các Bồ tát Thiện tư-Nghị, Tịn-huệ, Không-Vô, Thần-thông-Hoa, Quang-Anh, Huệ-Thượng,Trí-Tràng, Tịch -Căn, Nguyện-Huệ, Hương-Tượng, Bảo-Anh,Trung-Trú, Chế-Hành, Giải-Thoát. Tất cả đều tuân theo đức của Đại-sĩ Phổ-hiền đầy đủ vô lượng hạnh nguyện của các Bồ tát, ở yên trong pháp của mọi công-đức, đi khắp mười-phương, hành phương-tiện truyền-giáo, vào kho Phật-pháp, cuối cùng đã đến bờ bên kia. Trong không biết bao nhiêu thế giới, hiện thành bậc Đẳng-giác, ở cung Đâu-suất, rộng bày Chánh-pháp. Rời cung trời ấy, giáng thần vào thai mẹ, theo hông tay phải sanh ra, liền đi bảy bước, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp mười phương nước Phật không kể xiết. Đất chuyển sáu điệu. Cất tiếng tự xưng: “Trên đời, ta sẽ là bậc Tôn quý không ai bằng”. Đế-Thích, Phạm-Thiên phụng hầu, trời, người quy ngưỡng, sanh ra là gồm thông toán học, văn chương, bắn tên, cưỡi ngựa, rộng tập đạo thuật, luyện suốt sử sách, sau vườn dạo chơi, giảng thí võ nghệ. Ngay lúc sống chốn cung thâm, trong cảnh sắc đẹp mùi ngon, lại thấy cái già, cái bệnh, cái chết, tỉnh ngộ nhận thế gian chẳng thường, bèn bỏ nước nhà, tiền của, ngôi báu vào núi học đạo; quần áo, vật cưỡi, ngựa bạch, ngạch báu, chuỗi ngọc, đều khiến đem về; bỏ áo quý báu, mặc pháp phục, cắt bỏ râu tóc, ngồi ngay thẳng dưới cội cây, siêng năng kham khổ sáu năm, đi trên con đường nên đi. Hiện ra trong đời có năm cái không sạch, xuôi theo quần sanh mà chỉ cho thấy bụi nhơ. Tắm gội trong dòng sông Kim, thiên thần đè nhánh cây, vin lấy lên khỏi nước. Dưới cánh chim linh, đi đến Đạo tràng, cảm lòng đồng tử Kiết Tường, để tỏ rõ nghiệp phúc của đồng tử, thương nhận mớ cỏ đồng tử cho, rải dưới cội cây Phật, rồi Ma xua họ hàng đến áp bức và thử thách. Lấy sức trí chống lại, khiến Ma đầu hàng, được pháp mầu nhiệm, thành bậc Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác.

 

Phạm Thiên, Đế Thích cầu khuyên,thỉnh chuyển pháp luân. Theo phép đi của Phật mà đi, theo cách Phật rống mà rống, đánh trống Pháp, thổi loa Pháp, nổ sấm Pháp, loè chớp Pháp, trút mưa Pháp, thường dùng tiếng Pháp thức tỉnh thế gian. Ánh sáng soi cùng vô lượng nước Phật. Tất cả thế giới đều bị rung động sáu cách, luôn cả thế giới loài Ma, làm cho cung điện của chúng bị lay chuyển. Các ma đều hoảng sợ, không ma nào là không quy phục. Xé rách lưới tà tiêu diệt mọi kiến hoặc, làm tan mọi trần lao, phá lấp mọi hầm dục; nghiêm giữ thành pháp, mở rộng cửa pháp, rửa sạch nhơ nhớp, sáng tỏ trắng trong, sáng thông Phật pháp, tuyên bố lưu thông sự hóa độ chánh chân. Vào nước khất thực, được ăn đầy đủ, chứa công đức, chỉ phước điền; muốn tuyên Pháp, hiện vui cười, dùng những thuốc bổ Pháp, cứu lành ba khổ. Hiển hiện ý đạo, công đức không lường. Thọ ký cho Bồ tát thành Đẳng Chánh giác. Hiện ra để chỉ pháp diệt chướng độ khổ (diệt độ) ,cứu giúp vô cùng, tiêu trừ mọi phiền não, vun trồng cội đức,  đầy đủ công đức, mầu nhiệm khó lường. Dạo các nước Phật, khắp bày đạo giáo mà điều phải tu hành, là trong sạch không nhơ. Tỷ như nhà hát thuật, làm chuyện lạ lùng, hóa trai, hóa gái, không gì không biến. Cái học căn bản đã thông rõ, tuỳ ý mà làm. Các vị Bồ tát (kể trên) cũng như vậy; học tất cả các pháp, xâu suốt, tóm góp, chỗ ở thật an, không ai là không đặt vào đó để hóa độ. Khắp hiện ở các nước Phật nhiều vô số, nhưng chưa từng để tâm kiêu mạn phóng túng, thương xót chúng sanh. Các pháp như thế,tất cả đầy đủ. Kinh điển Bồ tát, nghiên cứu đến chỗ bí yếu mầu nhiệm, tiếng khen khắp cùng, dìu dắt mười phương, chư Phật vô lượng đều cùng hộ niệm. Nơi Phật ở đều đã được ở, nơi Đại thánh đứng, đều đã được đứng; con đường khai hóa của Như Lai, mỗi vị đều có khả năng tuyên bố. Vì các Bồ tát làm bậc Đại sư; lấy cái sáng sâu của sự tham thiền, mở đường cho quần chúng. Thông các pháp tánh, đạt tướng chúng sanh, rõ rốt các nước, cúng dường chư Phật,hóa hiện thân hình, dường như chớp nhoáng. Khéo học lưới vô uý, rành rõ pháp huyễn hóa, xé rách lưới ma, cởi mọi ràng buộc. Vượt lên địa vị Thanh văn, Duyên giác, được phép định “Không, Vô tướng, Vô nguyện”, khéo lập phương tiện, chỉ rõ ba thừa, nơi hai thừa trung, hai hiện ra diệt độ, nhưng tự không thấy có làm gì, có được gì, không day không dứt, được pháp “bình đẳng”, thành tựu đầy đủ vô lượng tổng trì, trăm ngàn chánh định. Các căn sáng suốt, rộng khắp vắng lặng, vào sâu trong kho pháp của Bồ tát, được Chánh định Hoa Nghiêm của Phật. Tuyên dương diễn thuyết tất cả kinh điển, ở cửa thâm định, thấy hết hiện tại vô lượng chư Phật. Trong một khoảnh khắc tư tưởng không đâu không đi cùng khắp. Cứu vớt nạn nguy không lúc thong thả. Phân biệt chỉ rõ bờ bến của sự Chân thật, được trí biện tài của Chư Như Lai, vào tiếng nói của chúng sanh, khai hóa cho hết thảy. Vượt qua các pháp “có” ở thế gian, tâm luôn trú vào đạo độ thế. Sống giữa vạn vật mà tuỳ ý tự tại; vì các loài, làm người bạn chẳng đợi mời, cõng vác quần sanh, vì chúng sanh mà nặng gánh. Lãnh giữ kho pháp rất sâu của Như Lai, che chở Phật tánh, thường khiến chẳng dứt. Dấy đại bi thương chúng sanh, diễn lời từ, trao pháp nhãn, lấp ba “thú”, mở cửa thiện. Lấy pháp không đợi cầu mà bố thí cho dân chúng, như người con thuần hiếu thương cha kính mẹ. Đối với các chúng sanh, coi như tự mình. Tất cả căn lành, đều đưa tới bờ bên kia. Ủng hộ vô lượng công đức chư Phật, trí huệ sáng suốt, vào bậc Thánh, không thể nghĩ bàn.

Những Bồ tát Đại sĩ nhp vậy, đếm không thể xiết, đồng một lúc đến dự hội.

 
  (trích tạp chí Từ Quang số 113-114, tr. 78-82, Sài Gòn tháng 6-7 năm 1961)

 

II. NGUYÊN NHÂN THUYẾT PHÁP

 

Lúc bấy giờ, Thế Tôn các căn vui đẹp, dáng vẻ và nhan sắc trong sạch, mặt sáng ngời ngời. Tôn giả A Nan, vâng lời Phật dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo qua vai phía mặt, quỳ mọp, tay chắp bạch Phật: “Hôm nay Thế Tôn các căn vui đẹp, dáng vẻ và nhan sắc trong sạch, mặt sáng ngời ngời như mảnh gương làu, bóng lồng trong ngoài, uy dung rõ rệt, siêu tuyệt không lường, thật là một vẻ đẹp đặc biệt chưa từng thấy như hôm nay. Bạch Đại Thánh! Lòng tôi nghĩ: Hôm nay đức Thế Tôn ở trong pháp lạ lùng đặc biệt; hôm nay đức thế Hùng đứng nơi chỗ Phật đứng, hôm nay đức Thế Nhãn đi trên con đường của bậc Thầy dẫn đường; hôm nay đức Thế Anh đứng trên nẻo cao nhứt; hôm nay đức Thế Tôn thực hành đức của Như Lai. Chư Phật thời quá khứ, hiện tại và vị lai, cùng một lòng ghi nhớ nhau, thì được như hôm nay, phải chăng Thế Tôn đang nghĩ đến chư Phật? Tại sao uy thần của Thế Tôn rực rỡ như vậy?”

 

Đến đây, Thế Tôn nói với A Nan: “A Nan! Có phải chư Thiên bảo ngươi đến hỏi Phật không? Hay tự ngươi dùng huệ kiến mà vấn Phật về uy nhan?”

 

A Nan bạch Phật: Chư Thiên không có bảo tôi. Tại tôi thấy rồi hỏi Phật vậy".

 

Phật nói: “Tốt thay! Này A Nan, câu hỏi của ngươi rất hay. Có phát trí huệ sâu xa, có biện tài chơn diệu, có thương nghĩ đến chúng sanh mới sáng hỏi nghĩa này. Như Lai lấy lòng đại bi độ tận thương xót ba cõi, cho nên mới hiện ra như thế, mở sáng đạo giáo, mong cứu đoàn mù, ơn ban cho cái lợi chơn thật, khó gặp khó tìm trong vô lượng ức kiếp, giống như hoa “Linh thụy" lâu lắm mới trổ một lần. Điều ngươi hỏi hôm nay giúp ích rất nhiều vì sẽ khai hóa cho tất cả chư Thiên và người đời. A Nan! Ngươi nên biết: Như Lai là bậc giác ngộ chân chánh, trí của Như lai không lường được, trí ấy dìu dắt chế ngự rất nhiều người. Cái sáng thấy của Như lai không bị gì ngăn ngại, không bị gì làm cho nó bị chấm dứt. Chỉ dùng sức của một bữa ăn, Như Lai cũng có khả năng làm cho mạng sống kéo dài trong ức trăm ngàn kiếp, vô số, vô lượng. Còn hơn những gì ngươi thấy hôm nay nữa: Các căn vui đẹp, không có hư tổn, tư sắc không biến, quang nhan không đổi. Tại sao được như thế? - Định huệ của Như Lai thông đạt vô cùng ở chỗ rốt ráo, nơi tất cả các pháp mà được tự tại. A Nan! Hãy nghe cho kỹ, nay ta vì ngươi mà nói”.

 

A Nan bạch Phật: “Dạ, tôi xin chăm chú nghe".

III. SỰ TÍCH PHÁP TẠNG TỲ KHEO

 

Phật nói với A Nan: “Trong quá khứ thật lâu xa không lường được không thể nghĩ bàn được, không biết cách đây bao lâu kiếp,có đức Đỉnh Quang Như Lai xuất thế, giáo hóa độ thoát không biết bao nhiêu chúng sanh. Các chúng sanh đắc đạo rồi, Như Lai mới thủ diệt độ (nhập Niết bàn). Kế đó có những Như Lai danh gọi Quang Viễn, Nguyệt Quang, Chiên đàn Hương, Thiện sơn Vương Tu di Thiên Quang, Tu Di Đẳng Diệu, Nguyệt sắc, Chánh Niệm, Ly Cấu, Vô Trước, Long Thiên, Dạ Quang, An minh Đảnh, Bất động Địa, Lưu Ly Diệu Hoa, Lưu Ly Kim Sắc, Kim Tạng, Diễn Quang, Diễm Căng, Địa Động,Nguyệt Tượng, Nhựt Âm, Giải thoát Hoa, Trang Nghiêm Quang Minh, Hải Giác Cấu, Xả Yếm Ý, Bảo Diệm, Diệu Đảnh Dõng Lập, Công Đức, Trí Huệ, Tế Nhựt Nguuệt Quang, Nhựt Nguyệt  Lưu Ly Quang, Vô Thượng Lưu Ly Quang, Tối thượng Thủ, Bồ đề Hoa, Nguyệt Minh, Nhựt Quang, Hoa Sắc Vương, Thủy Nguyệt Quang, Trừ Si Minh, Đô cái Hạnh, Tịnh Tín, Thiện Túc, Uy Thần,Pháp Tuệ, Loan Âm, Sư Tử Âm, Long Âm, Xử Thế. Chư Phật như thế đều đã qua rồi. 

 

Lúc bấy giờ, kế tiếp theo, có Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn ra đời. Thuở ấy có một nhà vua, nghe Phật thuyết pháp, lòng đầy vui vẻ, bèn nẩy ý tầm đường Vô thượng chánh chơn, bèn bỏ nước lìa ngôi, tu hạnh Sa môn, hiệu là Pháp Tạng, tài cao trí dõng, vượt trên người đời. Pháp Tạng tới nơi đức Phật Thế Tự Tại Vương ngự, dập đầu dưới chân Phật, đi quanh Phật ba vòng theo phía tay mặt, quỳ mọp chấp tay,đọc bài kệ khen ngợi đức Phật như sau:

 

Sáng rực dung nhan

Uy thần hết mức

Như lửa ánh sáng

Không gì bằng được

Ánh sáng nhựt nguyệt

Lóng lánh ma ni

Đều trở lu lờ

Như bỏ vào mực.

Dung nhan Như Lai

Trong đời không hai.

Tiếng đức Đại giác

Vang khắp mười phương.

Giới, văn, tinh tấn,

Định lực, trí huệ,

Uy đức không bàn,

Hơn cả ít thấy.

Sâu xét khó dò

Chư Phật biển Pháp

Tới chỗ sâu kín

Rốt đến đây, bờ,

Vô minh, tham, giận

Thế Tôn không còn.

Mạnh như sư tử

Thần đức không lường

Công hum rộng to

Trí huệ sâu diệu

Uy tướng sáng ngời

Đại thiên chấn động

Tôi nguyện làm Phật

Bằng đấng Pháp vương

Đưa sông sanh tử

Không ai không thoát,

Bố thí, điều ý,

Giới, nhẫn, tinh tấn,

Chánh định như vậy,

Trí huệ trên hết.

Tôi thế đắc Phật

Khắp hành nguyện ấn,

Tất cả lo sợ, 

Làm cho ổn an

Giả sử có Phật

Trăm ngàn vạn đức,

Vô lượng Đại Thánh

Đông như Hằng sa;

Cúng dường tất cả

Chư Phật vừa nói,

Không bằng cầu đạo,

Một lòng cứng rắn.

Chư Phật thế giới

Và nhiều Hằng sa,

Đất Phật vô số

Không thể kể xiết,

Sáng soi tất cả

Khắp các nước ấy.

Tinh tấn như thế

Uy thần không lường.

Nay tôi thành Phật

Nước tôi hạng nhứt,

Dân chúng là mầu,

Đạo tràng cao tuyệt

Nước như Nê-hườn

Không nước nào bằng.

Tôi sẽ thương xót

Độ thoát tất cả

Mười phương lai sanh

Lòng vui thanh tịnh.

Đã đến nước tôi

Vui sướng an nhàn

Mười phương chư Phật

Trí huệ vô ngại

Thường khiến Phật này

Biết rõ lòng tôi.

Giả sử thân tôi

Phải sa biển khổ

Tôi luôn tinh tấn

Nhẫn chịu đến cùng

Mà không hối tiếc.

 

Đức Phật  (Thích Ca) nói với A Nan: “Sau khi đọc xong bài tụng, Pháp Tạng tỳ khưu bạch với Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai rằng: Bạch Thế Tôn, tôi phát tâm cầu sự giác ngộ chơn chánh vô thượng, nguyện Phật thương tôi rộng nói kinh pháp. Tôi sẽ tu hành đê thâu lấy Phật quốc, là cõi  đất kỳ diệu vô lượng, do sự trong sạch xây đắp mà thành. Nguyện Phật làm cho tôi, lúc ở thế gian này, mau thành bậc Chánh giác, nhổ tận mọi gốc khổ não sanh tử”.  Đức Phật  (Thích Ca) nói với A Nan: “Lúc bấy giờ đức Phật Thế Tự Tại Vương nói với Pháp Tạng Tỳ khưu: “Đường lối tu hành để trang nghiêm nước Phật, tự nhà ngươi sẽ biết”. Pháp Tạng bạch Phật: “Nghĩa ấy rất sâu, không thuộc cảnh giới hiểu biết của tôi. Dạ xin Thế Tôn rộng ơn chỉ nói những hạnh làm cho nước sạch của chư Phật. Một khi tôi nghe xong, tôi sẽ theo lời Phật nói mà tu hành, để làm cho sở nguyện của tôi được thành tựu viên mãn. Liền khi ấy, Đức Phật Thế Tự Tại Vương biết Pháp Tạng là người cao minh, có một chí nguyện sâu rộng. Ngài bèn vì Pháp Tạng mà nói kinh rằng: Vi như ngươi lấy đấu mà tát biển cả, tuy trải bao kiếp số, vẫn cố công nên xuống được tận đáy mà lượm của báu, huống chi người chí tâm tinh tấn cầu Đạo không ngừng, kết quả sẽ gặp và nguyện gì lại không thành?


Rồi đó, đức Phật Thế Tự Tại Vương liền thuyết cho Pháp Tạng nghe điều lành, điều dữ của cõi Trời, cõi người, cảnh thô kịch, cảnh tinh diệu của hai trăm mười ức Phật. Tất cả những gì hợp với tâm nguyện của Pháp Tạng, đức Phật Thế Tự Tại Vương đều bày ra cho thấy hết.


Lúc bấy giờ, nghe Phật thuyết về các cõi nghiêm trang trong sạch, Tỳ khưu Pháp Tạng đều trông thấy hết. Tỳ khưu bèn phát nguyện cao đẹp nhứt, tâm toàn trong sạch, chí không dính vướng vào đâu, trong tất cả thế gian, không ai sánh bằng. (Ấy vì trải qua năm kiếp đầy đủ, Pháp Tạng đã suy gẫm và thu thập những hạnh thanh tịnh để trang nghiêm đất Phật.


A Nan bạch đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Đức Phật ở cõi thanh tịnh ấy sống đến chừng nào?’


Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phán: “Thọ mạng của Đức Phật ấy lâu đến 42 kiếp”.


Trước khi tiếp học các đoạn sau, chúng tôi nghĩ nên tạm dừng ở đây để nêu ra một vài nhận xét mà chúng tôi cho là tối cần thiết cho sự thâm hiểu kinh điển đại thừa mà kinh Vô Lượng Thọ là một.

 

Theo nhiều học giả phương Tây. Đại thừa là phần siêu hình của Phật giáo, tức là phần mà chúng ta, Phật tử, quen gọi là ‘vô tướng”. Đã là vô hình vô tướng thì không thể diễn đạt bằng lời nói, bằng văn tự được. Vì Vậy, đức Phật cũng như các bậc Thánh nhân Đông, Tây, trong trường hợp đề cập đến những vấn đề siêu hình, thường dùng những “tỷ dụ” (paraboles). Những ngữ ngôn của La Fontaine, sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử, nhiều lời dạy của đức J. Christ ghi lại trong sách Phúc Âm, đều là những “tỷ dụ” mà người đọc cần phải “nghiên cứu đến chỗ bí yếu nhiệm mầu", tức là phải tìm hiểu cho thấu cái nghĩa ẩn sâu. Nếu không có cái nghĩa sâu cần phải moi tìm, có lẽ Phật trước khi thuyết pháp, không nhắc đi nhắc lại câu: “Đế thính, Đế thính!”.

 

Đế là chân lý; thính là nghe. Vậy đế thính phải chăng là nghe cho đúng với cái lý chân chính, đừng nghe theo cái lý sai lạc mà chúng ta thường gọi nghĩa đen tức là nghĩa theo mặt chữ? Người học kinh Đại thừa mà không lưu tâm đến điểm này, khó tránh cái lỗi “chấp sự” và rất nhiều kinh Đại thừa, thậm chí kinh Pháp Hoa, sẽ bị lầm xem như những câu chuyện dị đoan.

 

Vậy cái nghĩa trắng, cái nghĩa thâm huyền của Kinh Vô Lượng Thọ là thế nào? Chúng ta hãy lần lượt cố tìm. 

 

Trước hết xin xét về tên kinh, trong đó ba chữ “Vô Lượng Thọ” đáng được để chúng ta để ý. Nghĩa đen là “thọ mạng vô lượng - tuổi thọ hay mạng sống khôn lường. Nhưng mạng sống của ai?

 

Chúng ta không thể đáp là Phật A Di Đà, hay của Phật Vô Lượng Thọ. Đáp như thế chẳng khác nói: “Kinh của Phật (Thích Ca) nói về mạng sống khôn lường”, thì ai còn hiểu gì được? Huống chi kinh mang tên là “Phật thuyết Vô Lượng Thọ Kinh” chớ nào phải “Phật thuyết Vô Lượng Thọ Phật kinh”.

 

Có người sẽ bẻ: tuy trong tên kinh không có chữ Phật, nhưng trong lòng kinh, có nói đến Phật Vô Lượng Thọ. Quả như thế, nhưng đã nói là “tỷ dụ” thì Phật Vô Lượng Thọ ở đây phải có một nghĩa trắng mà chúng ta cần tìm hiểu.

 

Theo chúng tôi, tên kinh chỉ có nghĩa: “Kinh Phật nói về mạng sống khôn lường”. Sống khôn lường là sống không biết đến đâu là cùng, là không chết, mà không chết là trường tồn, vĩnh cữu (éternel). Vậy vấn đề của Phật đem ra thuyết là vấn đề của cái vĩnh cửu (le problème de l’Eternel).

 

Cái gì vĩnh cửu trường tồn? Nhất định không phải cái phần “sắc” (vật chất hay tướng) của vạn vật, mà là cái phần tâm linh (tinh thần hay thể).

 

Trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn Phật hỏi một nhà vua: Lúc nhỏ Bệ hạ có thấy sông Hằng, bây giờ già, Bệ hạ cũng thấy sông Hằng, vậy cái “tánh thấy" (kiến tánh) của Bệ hạ trước và sau có dời đổi không? - Nhà vua đáp: Không

 

Đúng như vậy. Cái thân của nhà vua có thay đổi, khi nhỏ khác, lúc già khác, nhưng cái “tánh thấy" - cái khả năng thấy, cái gì ở trong nhà vua làm cho nhà vua thấy được sông Hằng - cái ấy trước sau như một. Vậy thân, phần xác thịt, là phần “không vô lượng thọ” vì có sanh, có đổi, có già, có chết, còn cái tánh thấy là phần “vô lượng thọ” vì nó thuộc về Tâm Tánh. Nói cho đúng, tánh thấy là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ là tánh thấy, và cả hai danh từ ấy đều chỉ cái mà Phật giáo Đại thừa gọi là Thể, là Tánh.

Để kết thúc đoạn này, chúng ta có thể giải thêm: Phật thuyết Vô Lượng Thọ kinh có nghĩa thâm diệu là: Kinh Phật nói về cái vĩnh cửu, tức là Tánh hau Phật tánh”.  Đến đây, câu Tự Tánh Di Đà” mà chúng ta thường nghe nói đến, có lẽ đã được sáng nghĩa phần nào.

 

Tánh có một cho muôn loài, muôn vật trong vũ trụ nhưng ở loài vô tình như ngói, gạch thì gọi là Pháp tánh, còn ở loài hữu tình như súc vật, con người, thì gọi là Phật tánh.

 

Đứng về mặt Khoa học hay Triết học, tánh ấy chỉ Sự sống (le Vie) ở khắp cùng vũ trụ vô biên. Câu “Phật biến nhất thế xứ” (Phật ở khắp tất cả các nơi) có nghĩa là Sự sống ở khắp cùng (la Vie est partout, la Vie est universelle).

 

Tánh ấy, hay Sự sống ấy “linh minh đổng triệt, trạm tịch thường hằng, phi trực, phi thanh, vô bối, vô hướng” như Tổ Vân Thê nói trong bộ “Di Đà sớ sao". Dịch ra Việt văn, câu vừa nhắc lại có nghĩa: Tánh ấy linh thiêng, sáng suốt, rỗng rang, thông suốt, trong trẻo, vắng lặng, còn hoài mãi mãi, chẳng phải nhơ, chẳng phải sạch, không trái, không mặt.

 

Vì linh thiêng, sáng suốt, rỗng rang và thông suốt nên gọi là “Vô lượng quang (Amitabha), là ánh sáng khôn lường.

 

Vì trong trẻo, vắng lặng, còn hoài mãi nên gọi là Vô lượng thọ (Amitayus), là sự sống khôn lường.

 

Ánh sáng, ở đây không phải cái ánh sáng vật chất của mặt trời, mặt trăng, của đèn của đóm, mà là Ánh sáng thiêng liêng (Lumìere divine, spirituelle), là Ánh sáng Giác. Mà Phật là Giác, thì ngược lại Giác cũng là Phật. Do đây mà Vô lượng thọ được gọi là Phật, và Phật vô lượng thọ có nghĩa là sự Sống Giác, sự Sống sáng suốt thiêng liêng khôn lường.

Ở người, nguồn sống ấy được gọi bằng nhiều tên như: Phật tánh, Tự tánh, Bổn tâm, Bổn giác, Chân trí, Chân thức, Chân như, Chân tâm Tuỳ cái “góc” mà chúng ta đứng nhìn nguồn sống ấy. 

 

Nói Tánh ấy chẳng phải nhơ, là ý nói, dầu ở người độc ác, tội lỗi, nó vẫn trước sau trong trẻo, không hề bị bụi trần làm hoen ố.

 

Nói Tánh ấy chẳng sạch, là ý nói tuy không bị nhiễm nhơ, nó không rời một sự một vật nào, y như Triết học bây giờ nói: Tinh thần (tánh) không thể nào xa lìa vật chất (muôn sự muôn vật hay nhất thế pháp).

 

Vậy, Tự Tánh của ta là nguồn sống ở ta, nó có hai đặc điểm: 1. Vô lượng quang (sáng suốt khôn lường); 2.là vô lượng thọ  (thường còn mãi mãi).

 

Nguồn sống Ánh sáng ấy (Vie - Lumìere) chứa đựng tất cả các “pháp” (muôn sự muôn vật) trong vũ trụ. Nghĩa là thế giới hữu hình, hữu tướng đều bắt từ nguồn ấy mà sáng hóa, không có sự nào, vật nào có ngoài nó. Do đây mà có câu “nhất thế do Tâm tạo", vì Tâm cũng là Tánh, tên hai mà nghĩa không hai. Lại nữa, vì muôn sự muôn vật đều nằm trong đó, cho nên Tâm, Tánh cũng gọi là “Pháp Tạng”. Cái kho tàng trữ tất cả các “pháp”. Vậy nói Pháp Tạng là để tỷ dụ cho Tâm, Tánh, như chúng ta sẽ thấy khi tìm hiểu sâu “lịch sử” của Tỳ khưu Pháp Tạng.

 

Tỳ khưu nguyên là một nhà vua, “nghe Phật Thế Tự Tại Vương thuyết pháp, lòng đầy vui vẻ, nẩy ý tìm đường Vô thượng Chánh chân, bèn bỏ nước lìa ngôi, tu hạnh Sa môn, hiệu là Pháp Tạng”.

 

Nghe pháp mà vui thích đến bỏ cuộc đời vinh hoa phú quý (tượng trưng cho đời sống khoái lạc vật chất) để đổi lấy con đường tu hành kham khổ, phải là bậc tâm trí cao cả khác phàm, phải là “Vua" với các nghĩa xuất chúng.

 

Vậy nhà vua không tên không tuổi, sống dưới thời Phật Thế Tự Tại Vương cách đây xa đây tít mù, và đã đi tu lấy hiệu là Pháp Tạng, chắc chắn không phải là một nhà vua có xương có thịt, một nhà vua của Lịch sử, mà là một tỷ dụ khác để chỉ Tâm, chỉ Tánh, là “Pháp tạng” như trên đã giải.

 

Phật Thế Tự Tại Vương cũng là một tỷ dụ.

 

Giải từ chữ một, danh hiệu trên có nghĩa đen là: Ông vua Tự Tại chốn thế gian. Về mặt nghĩa ẩn: (diệu nghĩa): danh hiệu ấy ngụ ý chỉ con người cao cả (Vương), tuy sống trong cảnh trần thế (thế) mà luôn luôn tự do, không bị một điều gì ràng buộc (tự tại). Con người ấy có th thể là một anh khố rách áo manh, nhưng vẫn là vua, vì tâm hồn cao cả chớ không phải vì chiếc ngai vàng vật chất. Phải chăng, với tỷ dụ này, Phật muốn nói: có sống dưới sự hướng thượng và cởi mở (dưới thời Phật Thế Tự Tại Vương), con người mới bỏ cái tên thế gian và đời sống trần tục, để trở về sống đời sống tâm linh (vie spirituelle). Bỏ thế gọi là đi tu.

Có thể có câu hỏi thắc mắc: Nếu Pháp Tạng không phải là một nhân vật tu thành Phật A Di Đà,, mà Pháp Tạng là một tỷ dụ để chỉ Tâm, Tánh, thì Tâm, Tánh sao lại tu thành Phật được?

 

Xin thưa: Chân - Tâm, Phật tánh, ai cũng có nhưng chúng sanh không sống theo sự sai khiến của Chân Tâm, của Phật Tánh (Tánh giác, Tánh sáng), mà sống theo Vọng tâm hay Thức, theo phàm tánh (tánh Vô minh đen tối), cho nên Phật mới bảo “chúng sanh bội giác hợp trần”, đưa lưng cho ánh sáng nội tâm mà day mặt về ngoại cảnh đen tối.

 

Ánh sáng Tâm ấy có một quyền lực lạ lùng là tự soi, tự thấy. Nói “Minh tâm kiến tánh” là nói tự mình phải làm ánh sáng Tâm mình để tự mình thấy Tánh mình. Nhưng mình là ai? Mình lả Ta và Ta là Tâm, là Tánh. Người tự xét để biết lòng mình, để biết mình không phải thân “ngũ uẩn giả hợp”, mà là tánh thiêng liêng, sáng suốt, là Sự Sống giác, Vô lượng thọ, người ấy đã “bội trần, hợp giác” - đưa lưng với trần thế đen tối mà day mặt về với ánh sáng nội tâm.

 

Xét lòng phàm để rửa sạch bụi nhơ là trở lại với cái Thanh tịnh là Chân tâm sẵn có nơi mình; không sống theo phàm Tánh, ắt phải sống theo Tự Tánh, Phật tánh của mình. Trở lại và sống như thế gọi là thành Phật, một cái “thành” không có gì là “thành” vì bản nguyên mình là trong sạch, lỡ tay ta đánh rơi xuống bùn, áo thành nhơ. Ta đem áo ra giặt, áo sạch trở lại, ta có cảm tưởng như vừa được một cái áo mới, hay áo cũ đã thành áo mới, nhưng nào ta có được gì đâu, bất quá ta làm cho cái nhơ bay đi, để cho áo trở về với trạng thái sạch sẽ trước kia của nó thôi. 

 

Vậy chúng ta có thể hiểu mục đích của Phật khi thuyết kinh mệnh danh Vô lượng thọ là:

  1. Chỉ cho biết các phần bất sanh bất diệt, thường còn mãi mãi, sáng suốt vô cùng ở trong mỗi chúng sanh.

  1. Phần đó, Phật gọi là Tâm, là Tánh hay Bổn Tâm, Bổn Tánh…như đã nói ở phía trước. 

  2. Khuyên con người phải bỏ ngoại cảnh phú quý, tu sửa khắt khe giữ lòng toàn trong sạch, “chí không dính vướng vào đâu, suy gẫm và thu thập những hạnh thanh tịnh suốt năm kiếp, để trang nghiêm đất “Phật” là Tâm mình.

 

Nhưng Phật không nói ngay như thế, Phật lại dùng “tỷ dụ”, để cho chúng sanh ai nhận được cái nghĩa thâm huyền là lý, thì nhận, bằng không cứ theo mặt chữ là sự ma tính mà hành, đôi đàng đều được lợi ích.

 

Thuở bé chúng ta đọc bài ngụ ngôn “Con quạ và con chồn”:

 

Con quạ đậu trên cây cao,

Mỏ ngậm bánh sữa tha đâu mới về.

Bắt hơi chồn đến gần kề,

Muốn ăn bánh sữa, cà kê phỉnh rằng:

“Tiếng cụ kêu tốt ai bằng…”

 

Quạ nghe lời phỉnh há mồm kêu to, đánh rơi miếng bánh. Chú Chồn chụp ăn lại còn chê Quạ: “Đây là giá một bài học cho bác nhé! Từ rày về sau, đừng nghe những lời đường mật nữa".

 

Trò nhỏ nào không tin là Quạ và Chồn biết nói, nhưng khi lớn, còn trò nào giữ cái tin tưởng ấy? Vậy có hai thứ hiểu khác nhau, cái cao, cái thấp, nhưng diệu lý trong ngụ 

ngôn vẫn có một là đừng nghe lời phỉnh mà bị gạt,

 

Đối với bài ngụ ngôn Vô lượng thọ đây cũng thế. Hiểu Vô lượng thọ là Phật, hay hiểu Vô lượng thọ là Tâm, Tánh, cái đích của Phật muốn dẫn đến, chỉ có một. Tin có Phật A Di Đà, có Tây phương Cực Lạc mà “nhất tâm niệm Phật”, lập nhiều tịnh nghiệp,hay hiểu Phật A Di Đà là nguồn sáng nơi mình. Tây phương là tượng trưng cho cảnh giới của Tâm thanh tịnh mà cũng  “nhất tâm niệm Phật” lập nhiều tịnh nghiệp, đôi đàng đều thu hoạch một kết quả an lạc như nhau, không bên nào hơn, bên nào kém. Đức Lục Tổ dạy: “Người có hai hạng, pháp chẳng có hai thứ” (Nhân hữu lưỡng chúng, pháp vô lưỡng hạng) vì vậy cho nên mới “có mê ngộ khác nhau, hiểu mau hiểu chậm (mê ngộ hữu thù, kiến hữu trì tật).

 

Đã nói mục đích của kinh là khuyên con người bỏ ngoại cảnh, hướng về nội tâm, tu sửa khe khắt…vậy muốn đạt đện sự thanh tịnh an lạc (vãng sanh Cực lạc quốc),con người phải biết muốn một cách quả quyết, muốn thật muốn, muốn vái chân, cái thiện, cái mỹ, chớ đừng muốn cái giả, cái bất thiện, cái xấu xa. Đây là nghĩa sâu của 48 lời nguyện mà chúng ta sẽ học tiếp trong bài tới. 

 

(trích tạp chí Từ Quang số 116, tr. 93-45

Sài Gòn tháng 9 năm 1961)

 

IV. PHÁP TẠNG PHÁT NGUYỆN

 

Lúc bấy giờ, Tỳ khưu Pháp Tạng thâu lấy những hạnh thanh tịnh trong hai trăm mười ức cõi đất tinh đẹp của chư Phật, tu theo đó xong, bèn tới nơi đức Phật (Thế Tự Tại Vương), dập đầu hôn chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, chắp tay đứng thẳng, bạch Phật: “Thế Tôn! Tôi đã thâu lấy xong những hạnh thanh tịnh dùng trang nghiêm cõi Phật.

 

Đức Phật Thế Tự Tại Vương nói với Pháp Tạng: “Nay nhà ngươi có thể nói  (những hạnh ấy). Nên biết giờ này mà ngươi nói ra là có thể làm đẹp lòng tất cả đại chúng. Hàng Bồ tát mà nghe ngươi xong, tu hành pháp của ngươi nói, sẽ nhân đó mà đến chỗ đầy đủ nguyện lớn vô lượng của mình”.

 

Tỳ khưu Pháp Tạng bạch Phật: Kính xin Phật rũ lòng nghe xét cho, tôi sẽ trình đủ những sở nguyện của tôi.

 

1.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trong nước tôi có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

2.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi còn phải trải qua ba nẻo ác, sau khi tuổi thọ chấm dứt, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

3.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi không đều được như vàng y, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

4.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi hình sắc chẳng đồng, kẻ đẹp người xấu, thì tôi không giữ ngôi chánh giác. 

 

5.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi không đều được Túc mạng thông, cho đến mức biết việc của trăm ngàn ức na do tha kiếp,thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

6.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi chẳng có thần thông Thiên nhãn, cho tới thấy được trăm ngàn ức na do tha cõi Phật, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

7.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi chẳng được thần thông Thiên nhĩ cho đến nghe được trăm ngàn na do tha lời Phật thuyết pháp và không đều lãnh giữ pháp ấy, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

8.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi chẳng được thần thông Tha tâm trí, cho đến biết được trăm ngàn ức na do tha tâm niệm của chúng sanh trong các cõi Phật, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

9.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi chẳng được Thần túc cho đến trong một niệm mà không vượt qua được trăm ngàn ức na do tha nước Phật, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

10.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi còn những tư tưởng tham tính đến thân mình, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

11.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi không trú trong Chánh định, và đều được Niết bàn,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

12.-  Nếu lúc tôi được làm Phật mà ánh sáng của tôi có chừng mực, thậm chí không chiếu được trăm ngàn ức na do tha cõi Phật, thì tôi không giữ ngôi chánh giác. 

 

13.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà thọ mạng của tôi có chừng mực, thậm chí chẳng dài đến trăm ngàn ức na do tha kiếp, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

14.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà bậc Thanh văn trong nước tôi có thể đếm được, thậm chí hạng chúng sanh thành Duyên giác trong trăm ngàn kiếp mà cũng biết được con số, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

15.- Nếu lúc tôi được làm Phật thì, trừ trường hợp tự do phát nguyện rút ngắn, thọ mạng của trời người trong nước tôi phải dài đến không thể hạn lượng được. Không như vậy,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

16.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi còn nghe tiếng bất thiện, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

17.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà mười phương chúng sanh hết lòng tin vui,muốn sanh về nước tôi, nhưng đến mười niệm mà không sanh sang bơi ấy, trừ những người phạm năm tội lớn dèm pha nở xưng danh tôi, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

18.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà mười phương thế giới chư Phật vô lượng đều nức nở xưng danh tôi, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

19.- Nếu lúc tôi được làm Phật, chúng sanh mười phương phát tâm bồ đề, tu tập các công đức,hết lòng tin tưởng, nguyện sanh về nước tôi, mà khi giờ thọ mạng chấm dứt, chư Bồ tát không vây quanh và hiện ra trước những chúng sanh ấy,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

20.- Nếu lúc tôi được làm Phật, chúng sanh mười phương nghe danh tôi, lại tưởng nghĩ tới nước tôi mà trồng nhiều gốc đức, đến đem lòng hồi hướng mong sanh về nước tôi, mà kết quả không toại lòng, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

21.- Nếu lúc tôi được làm Phật mà trời, người trong nước tôi đều không thành trọn vẹn ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

22.- Nếu lúc tôi được làm Phật, thì Bồ tát các cõi Phật phương khác,một khi sanh sang nước tôi, cuối cùng sẽ đến chỗ “nhứt sanh bổ xứ”, trừ những vị có nguyện riêng, tự ý hóa sanh,vì chúng sanh mà đeo mang thệ nguyện lớn, chứa chất gốc đức, cứu vớt tất cả, đi các nước Phật, tu hạnh Bồ tát, cúng dường mười phương Như lai, khai hóa chúng sanh đông không cùng như các sông Hằng, khiến những chúng sanh ấy đứng vào con đường chánh chơn vô thượng thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

23.- Nếu lúc tôi được làm Phật, Bồ tát trong nước tôi, vâng theo thần lực của Phật, cúng dường chư Phật, mà trong khoảnh khắc một bữa ăn, không đi khắp được vô số lượng na do tha nước Phật, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

24.- Nếu lúc tôi được làm Phật, thì Bồ tát trong nước tôi, tại nước chư Phật, để tỏ bày gốc đức của mình, phải được đem tất cả những gì mình cầu mong ra cúng dường chư Phật. Nếu các Bồ tát ấy không được như ý,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

25.- Nếu lúc tôi được làm Phật, mà Bồ tát trong nước tôi không kham diễn thuyết tất cả các trí, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

26.- Nếu lúc tôi được làm Phật, mà Bồ tát trong nước tôi không được thân Kim cang Na la diên,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

27.- Nếu lúc tôi được làm Phật, thì số trời người trong nước tôi và tất cả muôn loài được trang nghiêm, thanh tịnh, sáng đẹp, hình tướng rất đặc biệt, hết sức vi diệu, phải là con số không để đo lường được. 

 

Nếu phân biệt được tên họ và con số của những chúng sanh ấy, luôn cả những bậc được thiên nhãn,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

28.- Nếu lúc tôi được làm Phật, mà Bồ tát trong nước tôi cũng như các hàng ít đức không biết không thấy cây Đạo tràng, ánh sáng vô lượng và cao bốn trăm vạn lý, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

29.- Nếu lúc tôi được làm Phật, Bồ tát trong nước tôi, dù đã lãnh học kinh Pháp, ngầm tụng, nắm giữ và diễn thuyết, mà không được trí huệ biện tài, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

30.- Nếu lúc tôi được làm Phật, mà trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước tôi lại bị hạn lượng, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

31.- Nếu lúc tôi được làm Phật, nước tôi phải trong sạch cho đến chiếu thấy mười phương vô số vô lượng thế giới chư Phật, giống như mảnh gương trong rọi rõ mặt mày, hình thức. Nếu không được như vậy, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

32.- Nếu lúc tôi được làm Phật, thì từ đất trở lên cho tới hư không, cung điện, lầu quán,ao sông hoa ấy, cũng như vạn vật có trong nước tôi,đều là vô lượng của báu cùng với trăm ngàn mùi thơm hợp thành ấy xông khắp mười phương thế giới; Bồ tát (ở các thế giới ấy), hễ biết được mùi thơm ấy là tu mọi hạnh Phật. Nếu không được như vậy,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

33.- Nếu lúc tôi được làm Phật, các loại chúng sanh trong những thế giới nhiều vô lượng và không thể nghĩ bàn của mười phương chư Phật, hễ ánh sáng của tôi chạm đến thân họ, thì thân họ đều mềm dẻo, hơn thân tâm của trời, người. Không được như vậy, tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

34.- Nếu lúc tôi được làm Phật các loại chúng sanh trong những thế giới nhiều vô lượng và không thể nghĩ bàn của mười phương chư Phật, nghe tên tôi rồi mà không được “Vô sanh Pháp nhẫn” và các “Đà la ni" của Bồ tát, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

35.- Nếu lúc tôi được làm Phật, những người nữ trong những thế giới nhiều vô lượng và không thể nghĩ bàn của mười phương chư Phật, nghe tên tôi, vui mừng tin tưởng, phát tâm bồ đề, nhàm ghét thân nữ mà sau khi tuổi thọ chấm dứt, còn trở lại với hình tượng thân nữ, tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

36.- Nếu lúc tôi được làm Phật, Bồ tát trong những thế giới nhiều vô lượng không thể nghĩ bàn mười phương chư Phật, hễ nghe danh hiệu tôi rồi, thì sau khi tuổi thọ chấm dứt, thường tu “phạm hạnh” cho đến thành Phật. Nếu không được như vậy, tôi không giữ ngôi chánh giác 

 

37.- Nếu lúc tôi được làm Phật, Bồ tát trong những thế giới nhiều vô lượng và không thể nghĩ bàn của mười phương chư Phật, hễ nghe danh hiệu tôi ,thì điều năm thể ném xuống đất, vập đầu làm lễ, vui mừng tin tưởng, tu hạnh Bồ tát, chư Thiên và người đời, không ai không kính nể. Nếu không được vậy, tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

38.- Nếu lúc tôi được làm Phật, trời người trong nước tôi, muốn được quần áo thì tuỳ ý tưởng mà những “diệu phục” ứng với Chánh pháp và lời khen của Phật, liền ngay và tự nhiên phủ lên mình. Nếu còn phải cắt may, nhuộm, giặt,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

39.- Nếu lúc tôi được làm Phật, mà những điều khoái lạc của trời, người trong nước tôi không như những khoái lạc của bậc Tỳ Khưu “lậu tận” thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

40.- Nếu lúc tôi được làm Phật, Bồ tát trong nước tôi tuỳ ý muốn thấy cõi Phật vô lượng nghiêm tịnh trong mười phương, thì ngay lúc ấy,đúng như sở nguyện, đều nơi cây báu chiếu thấy hình tướng các cõi ấy, như trong gương sáng. Nếu không được như vậy,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

41.- Nếu lúc tôi được làm Phật, chư Bồ tát các cõi khác, nghe danh hiệu của tôi cho đến khi thành Phật, mà các căn thiếu thốn, không được đầy đủ, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

42.- Nếu lúc tôi được làm Phật, chư Bồ tát các cõi khác, nghe danh hiệu tôi đều kịp được “tam muội" thanh tịnh giải thoát, rồi ở trong tam muội ấy, trong một khoảnh khắc phát niệm, cúng dường chư Phật đông không lường và không thể nghĩ bàn được, mà không mất định ý. Nếu không được như vậy, tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

43.- Nếu lúc tôi được làm Phật, chư Bồ tát các cõi khác, nghe danh hiệu của tôi, thì sau khi mạng chung, sanh vào nhà tôn quý. Nếu không được như vậy, tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

44.- Nếu lúc tôi được làm Phật, chư Bồ tát các cõi khác, nghe được danh hiệu tôi là vui mừng nhảy nhót, tu hạnh Bồ tát, đầy đủ gốc lành. Nếu không được như vậy, tôi không giữ ngôi chánh giác.  

 

45.- Nếu lúc tôi được làm Phật, thì chư Bồ tát các cõi khác, một khi nghe danh hiệu tôi, đều kịp được tam muội “phổ đẳng”, rồi ở trong tam muội ấy cho đến khi thành Phật, thường thấy chư Phật đông vô lượng, không thể nghĩ bàn. Nếu không được như vậy, tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

46.- Nếu lúc tôi được làm Phật, Bồ tát trong nước tôi, tuỳ chí nguyện pháp nào,thì tự nhiên được nghe pháp ấy. Nếu chẳng được như vậy,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

47.- Nếu lúc tôi được làm Phật, chư Bồ tát các cõi khác, một khi nghe danh hiệu tôi mà không liền được đến chỗ “bất thối chuyển”,  thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

48.- Nếu lúc tôi được làm Phật, chư Bồ tát các cõi khác, nghe danh hiệu tôi mà không liền được đến “pháp nhẫn” thứ nhất, thứ nhì, thứ ba trong các pháp, của Phật mà không năng liền được bất thối chuyển, thì tôi không giữ ngôi chánh giác.

 

(trích tạp chí Từ Quang, số 117-118, tr. 80-88

 Sài Gòn tháng 10-11 năm 1961)

CHÚ GIẢI DIỆU LÝ 48 LỜI NGUYỆN

 

Quyền biến, Phật nói 48 lời nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng. Thật sự, đó là những lời quả quyết (affirmation) mà Phật dạy ta tự nhắc nhở mỗi mỗi ngày, không bao giờ sai chạy. Nếu có sự sai chạy thì Tỳ kheo Pháp Tạng đã không thành Phật A Di Đà.

 

“Trong nước tôi" có nghĩa là trong tâm thanh tịnh, vì Phật là người đã hoàn toàn thanh tịnh thì phải ở nơi (nước) thanh tịnh. Chữ nước ở đây có nghĩa là tâm.

 

“Trời, người" chỉ hai bậc chúng sanh cao nhất trong sáu nấc thang chúng sanh, làm thiện nhiều ác ít, nhưng còn vị kỷ.

 

“Bồ tát” chỉ hạng Trời, người, thần thiện, vì người quên mình, còn một bước nữa là đến ngôi hoàn toàn giải thoát giác ngộ.

 

Vậy trọn câu nguyện thứ nhất: “Nếu lúc tôi được làm Phật, mà trong nước tôi có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thì tôi không giữ ngôi Chánh giác” có nghĩa là: “Nếu lúc tôi đã thực hiện đầy đủ các điều kiện để thành bậc Giác ngộ hoàn toàn, mà trong tâm tôi còn những tư tưởng đen tối (địa ngục), tham lam (ngạ quỷ), và ty tiện (súc sanh), thì tôi nguyện không thành Phật”.

 

Một câu kết không có gì cam kết hết, vì nếu trong tâm còn những tư tưởng xấu xa như vừa kể, thì là chưa thanh tịnh thì làm sao thành Chánh giác? Đằng này Tỳ kheo Pháp Tạng nói: “Nếu tôi được làm Phật…”, nghĩa là đã được hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì tâm làm gì có ô trược. Vì lẽ này nên nói: tuy nói nguyện, thật sự là quả quyết.

 

Cứ theo lý trên thì 48 lời nguyện trong Kinh có nghĩa như sau:

 

Quả quyết thứ nhất: Trong tâm thanh tịnh, không có tư tưởng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

 

Quả quyết thứ hai: Trời, người, nào được tâm thanh tịnh thì sau khi chết, không còn tái sinh trong ba đường ác,

 

Quả quyết thứ ba: Hạng người sống trong thanh tịnh là sống đời sống tâm linh bất hoại (vàng y)

 

Quả quyết thứ tư: Hạng trời, người nào thanh tịnh thì sống trong tinh thần, tức là sống trong tánh bình đẳng. Đã sống trong tánh bình đẳng thì y như nhau, vì tánh đâu có tướng mà nói tốt nói xấu.

 

Quả quyết thứ năm: Hễ có thanh tịnh thì nhất định biết được các việc đời trước (túc mạng thông).

 

Quả quyết thứ sáu: Hễ có thanh tịnh thì nhất định có đôi mắt sáng suốt (thiên nhãn) thấy tất cả mọi sự thật (cõi Phật).

 

Quả quyết thứ bảy: Hễ có thanh tịnh thì nhất định có đôi tai lạ lùng (thiên nhĩ) nghe được tiếng nói của chân lý (tâm).

 

Quả quyết thứ tám: Hễ có thanh tịnh thì nhất định biết được người khác nghĩ gì, tính gì trong tâm (tha tâm trí).

 

Quả quyết thứ chín: Hễ có thanh tịnh thì nhất định không còn bị trở ngại trong việc truy tâm ánh sáng chân lý, cho nên có thể vượt đến bao nhiêu giai tầng cao siêu, xa vời của chân lý cũng được.  

 

Quả quyết thứ chín: Hễ có thanh tịnh thì nhất định không còn bị trở ngại trong việc truy tầm ánh sáng chân lý, cho nên có thể vượt đến bao nhiêu giai tầng cao siêu, xa vời của chân lý cũng được.

 

Quả quyết thứ 10: Hễ có thanh tịnh thì nhất định hết những tư tưởng ích kỷ.

 

Quả quyết thứ 11: Hễ có thanh tịnh thì nhất định hết tán loạn(định) và diệt được mọi phiền não hệ phược (Niết bàn)

 

Quả quyết thứ 12: Hễ sắp được làm Phật (thanh tịnh hoàn toàn) thì nhất định ánh sáng trí huệ vô cùng tận, đâu soi cũng tới (việc gì cũng xét thấy rõ).

 

Quả quyết thứ 13: Hễ sắp được làm Phật (thanh tịnh hoàn toàn) thì nhất định sẽ sống đời sống bất diệt (vie éternelle) là đời sống của tâm linh giải thoát. 

 

Quả quyết thứ 14: Những người nghe bổn chân lý của Phật dạy (Thanh văn) mà thanh tịnh được tâm, những người nghe lý vạn vật do nhân duyên sanh (Duyên giác) mà thanh tịnh được tâm, hai hạng người ấy rất nhiều không kể xiết.

 

Quả quyết thứ 15: Trừ những trường hợp phát nguyện trở vào nhân gian để độ thoát chúng sanh, hay thực hiện những công đức khác, hàng trời, người đã có thanh tịnh nhất định phải sống đời sống tinh thần bật diệt.

 

Quả quyết thứ 16: Hễ có thanh tịnh thì nhất định tai không còn nghe tiếng ác.

 

Quả quyết thứ 17: Mười phương chư Phật nhất định đều phải ca ngợi đức thanh tịnh mà tượng trưng là danh hiệu A Di Đà.

 

Quả quyết thứ 18: Trừ những người trọng tội, gia dư chúng sanh đều nhất định được thanh tịnh, nếu một lòng niệm Phật mà không tán loạn.

 

Quả quyết thứ 19: Chúng sanh nào nguyện cầu Chánh giác (phát tâm Bồ đề), làm việc thiện (tu tập công đức),  đầy đủ tín tâm (hết lòng tin tưởng) và nguyện được thanh tịnh (sanh về nước Phật) thì nhất định khi lâm lung, tâm được từ bi, trí huệ (chư Bồ tát vây quanh và hiện ra trước mắt).

 

Quả quyết thứ 20: Hễ nghe danh hiệu A Di Đà (tượng trưng cho sự thanh tịnh) mà muốn được thanh tịnh, rồi do đó làm việc phúc đức mà không cầu mong hưởng quả (hồi hướng) thì nhất định được thanh tịnh (kết quả toại lòng). 

 

Quả quyết thứ 21: Hễ có thanh tịnh, thì thân hình có tướng đẹp vì tướng do tâm uốn nắn.

 

Quả quyết thứ 22: Bậc Bồ tát (vị tha) hễ đắc thanh tịnh thì nhất định sanh về cõi nào sẽ thành Phật cõi ấy (nhất sanh bổ xứ), trừ trường hợp phát nguyện trở lại thế gian ra ơn hóa độ,

 

Quả quyết thứ 23: Hễ có thanh tịnh thì tâm hồn giải thoát mặc tình giao du trong cảnh chân lý vô tận.

 

Quả quyết thứ 24: Hàng Bồ tát thanh tịnh cầu mong lợi tha nào cũng được.

 

Quả quyết thứ 25: Hàng Bồ tát thanh tịnh nhất định phải có khả năng diễn giải mọi đạo lý.

 

Quả quyết thứ 26: Hàng Bồ tát thanh tịnh nhất định phải có hùng lực bất thoái (thân kim cang Na la diên)

 

Quả quyết thứ 27: Số trời người được thanh tịnh nhất định không thể biết được (vì ai cũng có thể trở thành thanh tịnh). Chúng sanh đã vô số thì người được thanh tịnh cũng phải vô số.

 

Quả quyết thứ 28: Dầu ít đức, dầu nhiều đức như hàng Bồ tát, hễ có thanh tịnh là thấy biết được ánh sáng và sự cao siêu của Pháp (Đạo tràng)

 

Quả quyết thứ 29: Bồ tát thanh tịnh thì nhất định có biện tài trí huệ.

 

Quả quyết thứ 30: Trí huệ biện tài của hàng Bồ tát thanh tịnh vô lượng vô biên, nhất định như vậy.

 

Quả quyết thứ 31: Tâm của người sắp hoàn toàn thanh tịnh là trí sáng vô biên, không đâu không soi tới.

 

Quả quyết thứ 32: Tâm của người sắp thành Phật chỉ chứa của báu công đức và mùi thơm của thanh khiết.

 

Quả quyết thứ 33: Ánh sáng thanh tịnh đến với ai (chạm) thì nhất định người ấy sẽ trở thành nhẫn nhục (mềm dẻo).

 

Quả quyết thứ 34: Chúng sanh nào niệm danh Phật A Di Đà mà tai nghe được danh hiệu ấy không thiếu sót (có định) thì nhất định không còn tạo nghiệp, không còn khởi niệm nghiệp (vô sanh pháp nhẫn) và cũng như các vị Bồ tát, nhất định giữa ác không cho sanh và phát triển các việc lành (đà la ni).

 

Quả quyết thứ 35: Người nữ mà phát tâm tu thanh tịnh, thì nhất định không tái sinh làm nữ nữa.

 

Quả quyết thứ 36: Bồ tát chưa được thanh tịnh, hễ nghe danh Phật A Di Đà rồi (nghĩa là được thanh tịnh rồi) thì sau khi chết, sẽ sống mãi trong thanh tịnh, đoạn dục (phạm hạnh) và tu tiến đến thành Phật.

 

Quả quyết thứ 37: Chúng sanh biết hành thiện bớt ác (trời, người) nghe nói đến công đức thanh tịnh (nghe danh hiệu Phật) mà biết kính mến đến chỗ tu hạnh vị tha, thì nhất định được kính nể.

 

Quả quyết thứ 38: Chúng sanh có thanh tịnh rồi mà muốn lấy Chánh pháp, chân lý che thân (diệu phục) là được ngay, nhất định như vậy.

 

Quả quyết thứ 39: Hễ được thanh tịnh thì nhất định được hưởng đời sống an vui của bậc tu hành đã đoạn trừ phiền não (lậu tận).

 

Quả quyết thứ 40: Bồ tát đắc thanh tịnh, nhất định được nương vào Pháp mà thấy mọi cảnh của giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. 

 

Quả quyết thứ 41: Chư Bồ tát đắc thanh tịnh, một khi nghe tiếng nói của thanh tịnh từ lúc bắt đầu cho đến khi thành Phật, không hề gián đoạn, thì nhất định mọi căn đầy đủ.

 

Quả quyết thứ 42: Hễ được chánh định trong thanh tịnh rồi, thì nhất định không bao giờ mất cái chánh định ấy.

 

Quả quyết thứ 43: Chư Bồ tát chưa thanh tịnh (cõi khác), một khi nghe được tiếng thanh tịnh, thì nhất định sẽ tái sinh vào nơi tôn quý.

 

Quả quyết thứ 44: Chư Bồ tát chưa thanh tịnh mà nghe được tiếng của  tâm và biết vui mừng, thì nhất định phải tu phạm hạnh Bồ tát và làm mọi việc lành.

 

Quả quyết thứ 45: Chư Bồ tát chưa thanh tịnh (cõi khác) một khi nghe được tiếng của tâm (danh hiệu Phật) thì nhất định sẽ đạt đến chỗ chánh định trong mọi cử chỉ, hoàn cảnh (đi đứng nằm ngồi) và ở mãi trong chánh định ấy, nhờ vậy mà diện đối với ánh sáng chân lý luôn luôn (thấy Chư Phật đông vô lượng).

 

Quả quyết thứ 46: Bồ tát đắc thanh tịnh rồi (Bồ tát trong nước Phật) thì nhất định muốn hỏi tâm về một vấn đề nào (nghe pháp), sẽ được tâm trả lời dứt khoát (tự nhiên nghe được pháp).

 

Quả quyết thứ 47: Chư Bồ tát chưa đắc thanh tịnh, hễ nghe được tiếng của thanh tịnh, thì nhất định tiến tu không bao giờ nản chí  (bất thối chuyển).

 

Quả quyết thứ 48: Chư Bồ tát chưa đắc thanh tịnh, hễ nghe được tiếng của thanh tịnh (tâm) thì tự nhiên được ba thứ nhẫn: 1) âm hưởng nhẫn (như nghe tiếng chửi mắng mà không giận), 2) nhu thuận nhẫn (đối với người khác luôn luôn mềm dẻo), 3) vô sanh pháp nhẫn (không còn tạo nghiệp, niệm nghiệp).

(tạp chí Từ Quang số 119, Hội Phật học Nam Việt ấn hành tháng  12 năm 1961)

Phật nói với A Nan: “Lúc bấy giờ, Tỳ kheo Pháp tạng, sau khi phát nguyện xong, đọc bài tụng như sau:

 

1.- Tôi lập nguyện “siêu thế”

Ắt đến Đạo Vô thượng

Nguyện bằng không đầy đủ

Thệ không thành Chánh giác. 

 

2.- Nếu trong vô số kiếp

Không làm bố thí lớn

Khắp trợ kẻ nghèo khổ

Thệ không thành Chánh giác.

 

3.- Nếu khi thành Phật đạo

Danh tiếng vượt mười phương

Mà rốt không nghe được (tiếng Pháp)

Thệ không thành Chánh giác.

 

4.- Lìa dục, sâu chánh niệm,

Tịnh, sáng, tu phạm hạnh

Chí cầu Vô thượng Đạo

Làm thầy bậc thiên, nhân.

 

5.- Sức thần bủa sáng lớn

Khắp chiếu không bờ bến

Tiêu trừ ba bụi mờ

Rộng cứu chúng ách nạn.

 

6.- Mở chung mắt trí huệ

Diệt trừ tối mê mờ

Đóng ngăn các đường ác

Thông suốt cửa hướng thiện.

 

7.- Công phu đều đầy đủ

Uy sáng ánh mười phương

Nhật nguyệt đành kém sáng

Sáng trời ẩn không hiện.

 

8.- Vì chúng mở kho Pháp

Rộng cho báu công đức

Thương trong đám đại chúng

Nói pháp Sư tử rống.

9.- Cúng dường tất cả Phật

Đầy đủ các gốc đức

Trí huệ đúng như nguyện

Thành bậc hùng ba cõi.

 

10.- Như Phật, trí vô ngại 

Không đâu không chiếu suốt

Nguyện công, huệ lực tôi

Đều là lực tối mạnh.

 

11.- Nguyện này bằng đúng quả

Vũ trụ nên cảm động

Hư không người cõi trời

Xin rải mưa hoa diệu.

 

Phật nói với A Nan: Tỳ kheo Pháp Tạng đọc xong bài tụng, ngay lúc ấy khắp mặt đất sáu thứ chấn động nổi lên, chư thiên rải hoa xuống trên đầu Pháp tạng như mưa. Tự nhiên trong không trung âm nhạc nổi lên ca ngợi: “Nhất định sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng chánh giác”. Rồi đó, Tỳ kheo Pháp Tạng tu hành đầy đủ những nguyện lớn đã lập, thành thực không dối, vượt ngoài thế gian, vui đi sâu trong vắng lặng. Này A Nan, Tỳ kheo Pháp Tạng tại nước Phật, trong đám chư thiên, ma, Phạm, Long, Thần, tám bộ, phát những nguyện lớn ấy. Phát nguyện rồi, hướng về một chỗ là chuyên chí trang nghiêm mảnh đất nhiệm mầu.

 

CHÚ GIẢI:


Cũng như 48 nguyện,  11 bài tụng ở trên có ý nghĩa thâm sâu như sau:


1.- Có lập nguyện “siêu thế”, nghĩa là có ý muốn quả quyết xa lìa thế sự, thì nhất định sẽ được sự giác ngộ tột bậc (Vô thượng chánh đẳng chánh giác).

2.- Muốn có giác ngộ tột bậc, phải hành hạnh bố thí lớn, nghĩa là phải ban ra tất cả cho mọi loài.

3.- Có bố thí lớn là có Pháp (Dharma) tức là nắm được Chân lý của vũ trụ

4.- Nghe được tiếng Pháp, sẽ không còn tham muốn nữa (lìa dục) bỏ việc trần thế, sống đời sống đạo đức tâm linh (đi sâu vào chánh niệm).

5.- Ly dục được là có trí huệ (ánh sáng lớn), soi chiếu mọi sự mọi vật, nhờ vậy mà phá trừ ba độc tham, sân, si (tiêu trừ ba bụi mờ).

6.- Công phu và phúc đức, khi đã được đầy đủ, thì ánh sáng tâm linh (lumìere spirituelle) bừng dậy, không một ánh sáng thế gian nào có thể so sánh bằng, dù đó là ánh sáng của mặt trăng, mặt trời. 

7.- Có huệ rồi thì vô minh chấm dứt, đường ác bị đóng ngăn và đường lành được mở thông suốt.


Từ 1 đến 7 là tự độ. Tự độ xong, phải bước sang giai đoạn độ tha:

8.- Đem chánh pháp truyền cho tất cả chúng sanh (nói pháp Sư tử rống).


9.- Phục vụ tất cả chúng sanh (cúng dường tất cả Phật) bằng cách thực hành các đức cho tới mức hoàn toàn như vậy sẽ có trí huệ viên mãn và thành bậc anh hùng thoát khỏi ngục tù của ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới (monde des désirs, monde des formes, monde des non-forme), nghĩa là lìa lối sống thiên về vật chất, thiên về mơ tưởng, thiên về quan niệm.


10.- Đến đây là đạt đến ngôi vị giải thoát, giác ngộ tột bậc cho nên:


11.- Sẽ có một trí huệ sáng soi khắp nơi, không bị gì ngăn ngại và bao nhiêu công đức và trí huệ thực hiện sẽ được trở thành một sức mạnh không sức mạnh nào hơn.


Thực hiện được sự giác ngộ Vô thượng là một đại sự làm chấn động vũ trụ và một sự vui mừng lớn lao, chung cho hạng lành cao cả (trời) và chúng sanh ở thế gian (người).


Vậy đại ý của 11 bài tụng là: Để được thành Phật (được Vô thượng chánh đẳng chánh giác), phải biết muốn một cách cương quyết. Kế đó là phải tự tu sửa: xa lìa thế sự, làm việc bố thí lớn, phải bịt tai với tiếng đời mà lóng nghe tiếng Pháp, hết ham muốn giữ lòng thanh tịnh. Có tịnh là có định, có định sẽ có huệ, nhờ huệ mà trừ ba độc, phá vô minh, sáng suốt không lường. Được như thế rồi, phải đem ánh sáng giác ngộ mar soi chiếu cho tất cả, phục vụ mọi chúng sanh. Rốt hết là phải đưa công phu và trí huệ  đến chỗ cùng tột, được thế sẽ như Phật. 


Tóm lại, cong đường dẫn đến quả Phật khởi đầu ở chỗ nguyện (vonlonté), trải qua giai đoạn rất dài là hành (pratique) và chấm dứt ở điểm quả (réalisation).


(trích tạp chí Từ Quang số 120, tr. 41-44

Sài Gòn tháng 1 năm 1962)

Nước Phật nên tu phải khuyếch trương rộng lớn, hơn tất cả các nước và tiếng được tinh đẹp; phải được xây dựng trên “thường nhiên”, không suy giảm, không biến đổi, trong chỗ không thể nghĩ bàn, lâu dài mãi mãi; (nơi ấy) chứa trồng vô lượng đức hạnh Bồ tát, không sanh những tri giác tham muốn, giận hờn, làm hại; không dấy những tư tưởng tham muốn, giận hờn, làm hại; không dính líu vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; sức mạnh nhẫn nhục thành tựu,không kể các khổ; it´ muốn, biết đủ; không nhiễm oán giận, si mê; chánh định, luôn vắng lặng, sáng suốt, chẳng ngại, không có lòng dối trá nịnh hót, tà vậy; vẻ mặt hòa thuận, lời nói dễ thương, đón trước ý người, vân chịu câu hỏi; mạnh mẽ tinh tấn, chí nguyện không mỏi, chuyên cầu pháp trắng trong, lấy lòng làm lợi quần sinh; cung kính Tam Bảo, phụng sự bậc thầy và người trên; dùng đại trang nghiêm mà làm đầy đủ mọi hạnh, khiến các chúng sinh thànhtựu công đức; ở hẳn trong ba định “Không”, “Vô tướng”, “Vô nguyện”, không làm, không khởi, xem mọi sự vật như huyễn hóa; xa lìa lời nói thê bỉ hại mình, hại người, hoặc hại cả hai đàng; tu tập lời nói lành, lợi mình, lợi người, đôi đàng đều lợi; bỏ nước từ ngôi, tuyệt dứt của cải sắc đẹp; tự hành sáu phép ba la mật; dạy người cùng làm; muốn sinh nơi nào là được như ý muốn, kho báu vô lượng tự nhiên phát ứng; dạy sửa và đặt chỗ cho an ổn không biết bao nhiêu chúng sinh, đúng hẳn trong đường vô thượng chánh chân. Hoặc làm trưởng giả, cư sĩ, họ hàng hơn người, được đời tôn quý, hoặc làm Sát đế ly, làm Vua, hay Thánh đề Chuyển luân, hoặc làm các Thiên vương cõi trời Lục dục, nhẫn đến Phạm vương; thường tứ sự cúng dường, tất cả chư Phật. Công đức như thế, không thể nói cho xứng. Hơi miệng thơm sạch như mùi hoa Ưu bát la, chân lông ở thân tiết ra mùi thơm trầm chiên đàn, mùi thơm ấy xông khắp cùng vô lượng thế giới. Dung sắc ngay thẳng, tướng tốt không ai bằng, tay thường ban ra của báu vô tận, quần, áo, uống, ăn, đều là những thứ trân diệu thơm như hoa; còn lụa, lọng, cờ, phướng đều là những vật trang nghiêm. Tất cả những đồ dùng ấy tốt đẹp hơn tất cả những (thứ tương tựa) ở cõi trời, người. Nhưng trong tất cả các pháp đó, luôn luôn được tự tại.

 

“Nước Phật nên tu" (Sở tu Phật quốc) nói ở đây có nghĩa “Tâm nên tu sửa", vì Phật quốc  (le Royaume De Bouddha) là Tâm.

 

Tâm chúng sanh là tâm chấp ngã, ích kỷ, nên nhỏ hẹp. Nay phải khuếch trương cho nó rộng lớn ra, tức là làm cho nó thành vị tha, thành tâm Bồ tát, Phật.

 

Tâm chúng sanh chạy theo cảnh thế gian biến dịch vô thường (impermanent). Tâm của người tu hành phải được xây dựng trên cái Thường (Eternel), là cái không hao mòn, suy giảm, biến đổi. 

 

Còn đối với người thì phải không dối trá, nịnh hót, tà vạy; phải hòa thuận, có lời nói dễ thương, đón trước ý người, vân chịu người hỏi, lấy nhân ái mà đãi, cung kính phụng sự bậc trên trước.

 

phải giữ vững “tâm nên tu" ấy trong cái thấy vạn vật là không (Không tam muội), trong chỗ thấy thực tướng của vạn pháp (Vô tướng tam muội), trong chỗ không còn cầu mong (Vô nguyện tam muội), trong chỗ không vọng động (Vô tác), trong chỗ không gây nhân để sanh quả (Vô khởi).

 

Như thế là giải thoát. Giải thoát tài, sắc; tự hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trị huệ (lục ba la mật).

 

Giữ tâm, rèn tâm được như vậy thì trên đường luân hồi, luôn luôn được tái sanh hoặc làm Thiên hưởng phước, hoặc làm người cao sang giàu có. Người có tâm thanh tịnh, chánh chân, giải thoát, ắt sẽ có thân tốt đẹp,hơi miệng thơm sạch, mồ hôi mùi trầm, dung sắc ngay thẳng, nhưng không mũi lệch, mắt lé…

 

V. PHÁP TẠNG THÀNH PHẬT

 

A Nan bạch Phật: “Bồ tát Pháp Tạng đã thành Phật rồi và nhập Niết bàn hay chưa thành Phật, hay hiện hãy còn?”

 

Phật nói với A Nan: “Bồ tát Pháp Tạng nay đã thành Phật, hiện ở Tây phương, cách đây mười muôn ức cõi; Thế giới của Phật ấy tên là An Lạc”.

 

A Nan lại hỏi: “Đã trải qua bao nhiêu lâu rồi, từ khi Pháp Tạng thành Phật?”

 

Phật đáp: “Từ thành Phật đến nay, đã qua mười kiếp”.

 

CHÚ GIẢI:

 

Pháp Tạng là Tâm, như đã giải mà Tâm là Phật (tức Tâm thị Phật), nên nay nói Pháp Tạng đã thành Phật rồi, là đều không phải khó hiểu. Tâm thành Phật là Tâm đã giác ngộ, giải thoát và trở về với các bản nguyên thanh tịnh của nó.

 

Thành Phật ở cõi Tây phương,các đây mười ức cõi. Vậy Tây phương xa thật là xa, nhưng chỉ xa cho người mà tâm chưa được giác ngộ. Nói một cách khác, thanh tịnh là một cái gì rất xa xôi đối với người chưa giác ngộ. Nhưng khi đã giác ngộ rồi thì rất gần, gần hơn tất cả cái gì gần mình nhất vì đó là tâm giải thoát của mình.

 

Cõi Tây phương có tên là An lạc. Tâm đã giải thoát, trở về với cái bản nguyên thanh tịnh của nó, hết cầu hết muốn, hết phiền hết lo, thì tức nhiên phải có sự an ổn (paix intérieure) và vui sướng không ngằn hay lạc (félicité) cho nên gọi là An lạc.

 

VI. CẢNH NƯỚC AN LẠC

Nước của đức Phật ấy tự nhiên có bảy món báu: vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ pháchm xa cừ, mã não, hợp lại làm đất, rộng rãi thênh thang, không biết giới hạn và đến đâu là cùng. Các báu ấy lẫn lộn, xen nhau, sáng sủa rực rỡ, mầu nhiệm, tốt đẹp lạ lùng, trong sạch trang nghiêm, vượt trên các thế giới trong mười phương. Bề trong các báu ấy thật tinh anh, các báu ấy giống như những báu ở cõi Trời thứ sáu. Lại nữa, trong nước ấy không có núi Tu di và rào Kim Cang, cũng không có biển lớn, biển nhỏ, khe, ngòi, giếng, hang. Nhưng nhờ thần lực của Phật, hễ muốn thấy các thứ ấy là thấy. Cúng không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, và những xu hướng tai nạn; cũng không bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông không lạnh, không nóng, khí hậu điều hòa vừa phải.

 

Lúc bấy giờ A Nan bạch Phật: “Thế tôn nếu ở nước ấy không có núi tu di, thì bốn vị Thiên vương và cõi trời Đao lợi nương trú vào đâu?”

 

Phật đáp A Nan: “Vậy cõi Trời thứ ba là Viêm Thiên cho đến cõi Trời Sắc cứu cạnh đều trú vào đâu?”

A Nan bạch Phật: “Quả báo của hạnh nghiệp thật không thể nghĩ bàn được”.

 

Phật nói với A Nan: “Quả báo của hạnh nghiệp không thể nghĩ bàn, thế giới của chư Phật cũng không thể nghĩ bàn. Công đức thiện lực của chúng sanh ở các cõi Phật ấy nằm trong đất của hạnh nghiệp, bởi cớ nên được như vậy thôi”.

 

A Nan bạch Phật: “Tôi chẳng nghi ngờ điều này, chỉ vì chúng sanh trong tương lai nên mới hỏi nghĩa của “cái không thể nghĩ bàn ấy", để trừ lòng nghi ngờ của họ”.

 

Chú giải:

 

Kinh nói: đất nước An lạc do bảy báu thành. Nên hiểu: Muốn có thanh tịnh, phải lấy tín, giới, văn, tàm, quí, xả và huệ mà tạo (xem cước chú về bảy báu hay thất bảo).

 

Người thế gian lấy vàng, bạc, châu, báu bằng chất kim, chất đá là quý, người tu hạnh thanh tịnh phải bảy cái tín, giới,...nói trên làm quý, làm tài sản, làm sự nghiệp. Ý Phật muốn đối chiếu của thế gian (biens terrestres) với của báu tinh thần (biens spirituels) tức là đức hạnh.

Kinh nói: Các báu ấy giống những báu của cõi trời thứ sáu là Quang Âm Thiên, thuộc về Đệ nhị thiền. Vậy phải chăng ý Kinh muốn nói: Tâm thanh tịnh thứ hai (Đệ nhị thiền) ở đấy tâm sống trong cõi Thiên Quang Âm (plan divin de Lumìere), tức là trong ánh sáng? Mà sống trong ánh sáng, phải chăng là sống giải thoát khỏi cái hắc ám của vô minh, nghiệp chướng, phiền trược?

 

Phật quốc nói ở đây là Tâm thanh tịnh, mà thanh tịnh thì bình đẳng, cho nên nói không có núi, có biển thí dụ cho những bất bình đẳng ở thế gian. Thanh tịnh thì hết những ý niệm bất thiện, cho nên nói không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Thanh tịnh thì an nhiên bất biến cho nên nói không có bốn mùa thay đổi, nóng lạnh vô chừng.

 

Phật quốc nói ở đây không có nghĩa là một thế giới trong tam thiên đại thiên thế giới của Kinh, hay trong hằng sa thế giới của khoa Thiên văn học ngày nay, như có người hiểu lầm. Đây là cảnh giới của tâm linh (plan spirituel) chớ nào phải cảnh giới của vật chất (plan physique), đó là diệu nghĩa của câu: “Vậy cõi trời thứ ba là Viêm Thiên cho đến cõi trời Sắc cứu cánh đều trú vào đâu?”

 

Theo Kinh điển, Phật dạy thế giới chúng ta đang ở đây, giữa có núi Tu di, bốn hông núi Tu di có bốn vị Thiên vương và trên đảnh có cõi trời Đao lợi.

 

Rồi trong Kinh này, Phật lại nói Tây phương thế giới không có núi Tu di.

 

Vậy Thế giới Tây phương rất khác biệt thế giới của chúng ta đang ở, khác biệt luôn tất cả những thế giới mà Thiên văn học tìm thấy. Để cho chúng sanh hậu tấn khỏi lầm điều này, ông A Nan mới giả tuồng ngớ ngẩn đặt ra câu hỏi: “Không có núi Tu di thì bốn vị Thiên vương và cõi Trời Đao lợi nằm ở chỗ nào?” để cho Phật giải.

Phật không giải mà hỏi lại: “Vậy cõi Trời thứ ba là Viêm Thiên cho đến cõi Trời Sắc cứu cánh đều trú vào đâu?” Tất cả những cõi này không trú vào đâu cả vì đâu phải cảnh vật chất mà cần phải có chỗ nương tựa? Ai nói: “Thiên văn học ngày nay tìm ra không biết bao nhiêu thế giiới trong vũ trụ vô biên, vậy thì biết đâu một trong những thế giới đó không là thế giới Cực lạc”., mà là người “pháp chấp”, chưa biết gì về khoa tâm pháp của Phật, cũng chưa hiểu được lối thí dụ (enseignement parabolique) của Phật. Thà đừng giải thích còn hơn là giải thích theo lối này, vì không còn sự mê hoặc nào hơn. “Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan” là đây.

 

(trích tạp chí Từ Quang số 121-122, tr. 69-75

Sài Gòn tháng 2-3 năm 1962)

VII. ÁNH SÁNG KHÔNG LƯỜNG

(Quang minh vô lượng)

 

Phật nói với A Nan: Ánh sáng uy nghiêm và linh thiêng của Phật Vô lượng Thọ cao hơn hết, là bậc nhất; ánh sáng của các Phật khác không bì kịp. Ánh sáng của Phật Vô lượng Thọ hoặc chiếu soi trăm thế giới Phật, hoặc chiếu soi ngàn thế giới Phật. Tóm tắt mà nói, ánh sáng ấy chiếu soi những nước Phật nhiều như các sông Hằng ở phương đông và phương trên, phương dưới cũng đều được chiếu soi như vậy.Hoặc chiếu soi tới bảy thước, hoặc một do tuần, hai, ba, bốn, năm do tuần, lần lên như vậy cho đến khắp một nước Phật. Bởi cớ, Phật Vô lượng Thọ có những hiệu Vô lượng quang Phật, Vô biên quang Phật, Vô ngại quang Phật, Vô đối quang Phật, Diệm vương quang Phật, Thanh tịnh quang Phật, Hoan Hỷ quang Phật, Trí huệ quang Phật, Bất đoạn quang Phật, Nan tư quang Phật, Vô xưng quang Phật, Siêu nhật nguyệt quang Phật. Ở các cõi Phật, chúng sanh nào mà gặp ánh sáng ấy, thì ba chất dơ (tham,sân, si) được tiêu diệt, thân ý mềm mại, vui vẻ nhảy nhót, vì tâm lành đã sinh rồi vậy. Nếu còn ở trong ba đường (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh) là nơi lao lực, khổ sở, mà thấy được ánh sáng ấy, thì đều được nghỉ ngơi, khổ lo không trở lại nữa; sau khi mạng chung, lại còn nhờ đó mà giải thoát.

 

Ánh sáng của Phật Vô lượng Thọ rất là rực rỡ, chiếu sáng mười phương, các nước của chư Phật, không đâu mà không nghe biết. Chẳng phải một mình ta xưng tụng ánh sáng của Phật Vô lượng Thọ mà tất cả chư Phật, Thanh văn, Duyên giác, các hành Bồ tát, đều cùng nhau ngợi khen y như vậy. Nếu chúng sinh nào nghe biết được uy thần công đức của ánh sáng ấy mà ngày đêm hết lòng không dứt khen nói, thì được như lòng nguyện ước mà sinh về nước của Phật Vô lượng Thọ, được chư Bồ tát và các hàng Thanh văn cùng nhau khen ngợi ánh sáng của mình, y như hôm nay (ánh sáng của Phật Vô lượng Thọ được khen ngợi vậy).

 

Đức Phật Thích Ca nói: Ánh sáng uy nghiêm thiêng liêng, cao xa, mầu nhiệm của Phật Vô lượng Thọ mà ta nói đây dầu có trải qua một kiếp, ngày đêm nói mãi, cũng không làm sao nói cho hết những cái uy nghiêm, thiêng liêng, cao xa và mầu nhiệm ấy. 

 

Chú giải:

Dưới đây là những điểm chúng ta cần để ỵ và tìm hiểu:

 

Ánh sáng của Phật Vô lượng Thọ cao hơn hết, là bậc nhất; ánh sáng của các Phật khác không bì kịp.

 

Tại sao có sự sai khác giữa Phật và Phật như vậy?

 

Ở phần chú giải trước chúng ta đã nói Phật Phật Vô lượng Thọ chính là ánh sáng vô thượng đó, nghĩa là không có Phật vô Lượng Thọ làm chủ một cái ánh sáng cao hơn hết, bậc nhất, mà chỉ có thứ ánh sáng ấy mà Kinh quyền gọi là Phật Vô Lượng Thọ. Và ánh sáng ấy - viết bằng chữ A mới đúng - là thể của vũ trụ vạn vật. 

 

Vì là Thể của tất cả, là nguồn cội của tất cả, nên trong một bài tán mới có câu:

 

Quang trung hóa Phật vô số ức

Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên.

 

Trong Hào quang quyền gọi là A Di Đà Phật (chớ không phải của A Di Đà Phật),vô số ức Phật cũng như vô biên Bồ tát hóa sanh ra. Ngoài hào quang ấy, không có Phật và chúng sanh (Bồ tát).

 

Vì lẽ này mà Kinh có câu: “Nhất thế do Tâm tạo", Tâm là Phật, mà Phật là Hào quang hay Ánh sáng bậc nhất ấy.

 

Tâm sanh ra hai cái đối nhau sai khác là Phật và Bồ tát, y như Nho gia nói: “Thái cực sanh lưỡng nghi" hay như Lão giáo nói: “Nhất sanh nhị, nhị sanh tam”. Tuy ba mà vẫn một, cho nên Phật giáo nói: “Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt”  (Tâm, Phật, chúng sanh, tuy ba nhưng không sai khác và cách biệt nhau).

 

Ánh sáng là Thể của Phật, của chúng sanh, thì Nó là Toàn thể còn Phật là phần tử, vì vậy Toàn thể phải bao trùm phần tử, vì vậy Toàn thể phải bao trùm phần tử. Thí như một giọt nước biển, tuy đồng một chất mặn như nước của một đại dương, vẫn không phải toàn nước của đại dương.

 

II. Ánh sáng ấy ở khắp cùng. Không khắp cùng sao được khi Ánh sáng ấy là Thể của vũ trụ vạn vật; hễ đâu có vũ trụ thì phải có Thể, mà vũ trụ vô cùng thì Ánh sáng ấy là Cái Khắp Cùng (Ommiprésecence). Đoạn này còn giúp ta hiểu câu “Phật biến nhất thế xứ (Phật ở khắp mọi nơi).

 

III. Kinh nói Phật Vô Lượng Thọ có 12 hiệu. Nên hiểu: Ánh sáng Vô Lượng Thọ có 12 thuộc tánh hay đặc tánh (attributs). Đó là:

 

1.- Vô lượng. Vũ trụ như vừa nói, là vô cùng, thì làm sao đo lường nó được. Tướng mà như vậy, thì thể của nó là Ánh sáng cũng phải vô lượng (incommensurable).

 

2.- Vô biên. Hễ vô cùng, vô lượng, là vô biên không bờ bến (illimité).

 

3.- Vô ngại. Không gì ngăn ngại, cản trở, ngăn đón cái Ánh sáng Thể đó. Thật vậy, nếu nó bị ngăn ngại, thì làm sao ở khắp cùng được? Một hình dáng xa xôi của cái “vô ngại"này là cái vô ngại của âm ba (làn sóng điện của radio), không đâu là nó không chui vào được, dầu là cửa đóng, tường cao.

 

4.- Vô đối. Không gì đem ra so sánh, đối đãi được, vậy là tuyệt đối (absolu).

 

5.- Diệm vương. Diệm là Ánh sáng trên ngọn lửa, Vương là vua. Vậy Diệm vương là vua của các ánh sáng, là cao hơn hết (suprême).

 

6.- Thanh tịnh. Trong sạch (pur).

 

7.- Hoan hỷ. Là vui vẻ, là an lạc (félicité).

 

8.- Trí huệ. Thông minh sáng suốt (intelligence, sagesse, sapience)

 

9.- Bất đoạn. Không thể cắt ra từng khúc. Ánh sáng này vô hình, vô tướng, làm sao cắt nó được mà không bảo là “vô đoạn” (insécable)

 

10.- Nan tư. Khó mà suy nghĩ khó mà quan niệm, nghĩa là khó lấy trí óc phàm phu mà quan niệm, mà nghĩ tưởng đến Ánh sáng ấy được (impensable, inconceivable).

 

11.- Vô xưng. Không gọi được, không đặt tên được (innommable) vì nó vượt khỏi vòng danh sắc nghĩa là vòng vật chất có hình, có tên.

 

12.- Siêu nhật nguyệt. Vượt lên trên mặt trời, mặt trăng, nghĩa là sáng hơn cái sáng của nhật nguyệt (incomparable).

 

Nói cho đúng, chính những cái Vô biên, Vô lượng…đó là cái mà kinh quyền gọi là Ánh sáng (Lumière) là Phật Vô Lượng Thọ.

 

VIII. SỐNG LÂU VÔ CÙNG

(Thọ mạng vô lượng)

 

Phật nói với A Nan: Lại nữa, đời sống của Phật Vô Lượng Thọ lâu dài chẳng biết chừng nào mà kể, ngươi có biết chăng? Giả như vô lượng chúng sinh trong các thế giới khắp mười phương, đều được thân người, rồi những người ấy đều được thành tựu quả Thanh văn, Duyên giác và cùng nhau tập họp lại, một lòng tham thiền định ý, suy gẫm hết sức mình trong trăm ngàn muôn kiếp để tính đếm số tuổi dài xa của Phật Vô Lượng thọ, cũng không làm sao biết cho được tận cùng cái giới hạn và mức cùng cực của số tuổi ấy. Thọ mạng của các Thanh văn Bồ tát, trời, người ở Phật Vô Lượng Thọ, dài vắn cũng như vậy nữa, nghĩa là không thể lấy sự tính toán, thị dụ mà biết được. 

 

Chú giải:

 

Ngoài những thuộc tánh kể trên, còn một thuộc tánh chánh nữa là “Vô lượng thọ”, nghĩa là sống hoài, còn hoài, không mất.

 

Thế là bất sanh thì phải bất diệt, mà bất diệt thì là vô lượng thọ vậy.

 

Các Thanh văn, Bồ tát, trời, người, mà ở trong nước Vô lượng Thọ (Eternité), thì nhất định không phải Thanh văn, Bồ tát, trời, người nhục thân, mà là Thanh văn, Bồ tát, trời, người pháp thân tức là cái phần Tâm Tánh. Mà Tâm Tánh là Thể, cho nên cũng Vô lượng thọ.

 

(trích từ tạp chí Từ Quang số 123, tr. 40-44

Sài Gòn tháng 4 năm 1962)

 

IX. THÁNH CHÚNG VÔ LƯỢNG

 

Lại nữa, số Thanh văn, Bồ tát (ở cõi ấy) chẳng thể nói ra cho xiết được. Tất cả các vị đều là bậc Tâm Tánh, trí huệ rõ thông, uy lực tự tại, có thể thu nắm tất cả thế giới trong bàn tay.

 

Phật nói với A Nan: Trong buổi hội lần đầu của Phật Vô lượng Thọ, số Thanh văn không thể đếm được, số Bồ tát cũng vậy. Có khả năng như Đại Mục Kiền Liên đây và đông trăm ngàn muôn ức, cho đến vô lượng vô số, dầu có trải qua một số kiếp kể không xiết đi nữa, xúm nhau lại mà cộng đếm, cũng không làm sao biết rốt ráo cả, sâu rộng không lường. Giả sử có người chặt một sợi lông ra làm trăm đoạn, mỗi đoạn thấm lấy một giọt nước. Ngươi nghĩ thế nào? Nước thấm trong các khúc lông ấy và nước ở biển cả, đàng nào nhiều? A Nan bạch Phật: Sự ít nhiều giữa thấm lông và nước trong biển cả, dầu là kẻ khéo léo từng trải về khoa tính toán cũng không thể đem lời nói, thí dụ, so sánh mà biết được.

 

Phật nói với A Nan: Như bọn Mục Kiền Liên kia, dầu có trải trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp để đếm tính số Thanh văn và Bồ tát ở buổi hội đầu tiên tại nước An Lạc, thì con số của bọn ấy đếm tính được giống như nước thấm lông còn con số chúng không biết được như nước ở biển cả.

 

Huyền nghĩa:

 

Thanh văn chỉ đức “tự giác, tự độ”. Bồ tát chỉ đức “tự giác, giác tha, tự độ, tự tha".

 

Nhưng dù mới thức tỉnh cho riêng mình, hay sau khi tự thức tỉnh rồi ra làm việc thức tỉnh cho người khác, hai hạng đều phải là những bậc đã “đắc thanh tịnh”.

 

Đã là người “thanh tịnh”, lẽ cố nhiên phải sống trong thanh tịnh, phải “ở cõi thanh tịnh, phải sống trong và vì cái Thường tồn bất biến  (Vô lượng thọ = Eternité), không còn sống trong và vì cái Vô thường biến dịch nữa (Impermanence).

 

Chúng sanh vô lượng, mà chúng sanh nào cũng có khả năng thành Tiên tác Phật, thì số người tự giác (Thanh văn) và giác thọ (Bồ tát) phải đông vô số kể.

 

Kinh còn nói: “buổi hội lần đầu của Phật Vô lượng thọ, số Thanh văn không thể đếm được,số Bồ tát cũng vậy". Buổi hội lần đầu là buổi hội nào? Phải chăng Kinh muốn nói ở chỗ nguyên thỉ (à l’origine), Tâm chứa toàn những đức tánh sáng suốt (tự giác tượng trưng bởi Thanh văn) và vị tha (giác tha tượng trưng bởi Bồ tát)? Rất có lẽ, vì nguyên lai, nguồn cội của Tâm là như thế, nhưng vì chúng sanh để cho vật dục lôi kéo, thức tâm làm kê, thành sau cái “hội đầu tiên” ấy, Thanh văn và Bồ tát ly tán, để rồi phải gia công tu tập mới quy cả hai về một mối ở đất Thanh tịnh.

 

X. CÁC CÂY BẢY BÁU

 

Lại nữa, tại nước ấy,những cây bảy báu đầy khắp thế giới. Có những cây vàng, cây bạc, cây lưu ly, cây pha lê, cây san hô, cây mã não, cây xà cừ. Hoặc có thứ cây hai báu, ba báu, cho chí bảy báu, các báu ấy cùng nhau xây chuyển mà hợp thành. Hoặc có cây vàng mà lá,hoa, trái bạc; hoặc có cây bạc mà lá, hoa, trái bạc; hoặc có cây bạc mà lá, hoa, trái vàng; hoặc có cây lưu ly mà lá, hoa, trái pha lê, hoặc có cây thủy tinh mà lá, hoa, trái lưu ly; hoặc có cây san hô mà lá,hoa, trái mã não; hoặc có cây mã não mà lá, hoa, trái lưu ly; hoặc có cây xà cừ,  mà lá,hoa, trái là các thứ báu khác. Hoặc có thân cây báu gốc vàng tía, thân bạc, cành lưu ly, đọt thủy tinh,lá san hô, hoa mã não, trái xà cừ. Hoặc có thứ cây báu gốc bạc, thân lưu ly, cành thủy tinh, đọt thủy san hô, lá mã não,hoa xa cừ, trái vàng tía. Hoặc có thứ cây báu gốc lưu ly, thân thủy tinh, cành san hô, đọt mã não, lá xa cừ, lá vàng tía, hoa bạc trắng. Hoặc có thứ cây báu gốc thủy tinh, thân san hô, cành mã não, đọt xa cừ, lá vàng tía, hoa bạc trắng,trái lưu ly. Hoặc có thứ cây báu gốc san hô, thân mã não, cành xa cừ, đọt vàng tía, lá bạc trắng, hoa lưu ly,trái thủy tinh. Hoặc có thứ cây báu gốc san hô, thân mã não, cành vàng tía, đọt bạc trắng, lá lưu ly,hoa thủy tinh, trái san hô. Hoặc có thứ cây báu gốc xa cừ, thân vàng tía, cành bạc trắng, đọt lưu ly, lá thủy tinh, hoa san hô, trái mã não. Các thứ cây báu ấy, hàng hàng ngang nhau, thân thân liền nhau, lá lá hướng về nhau, hoa hoa thuận với nhau, trái trái như nhau, vẻ tốt sáng rọi, ngắm không kể xiết. Lúc có gió thanh nổi lên thì từ các cây ấy, năm âm cung, thương, mầu nhiệm phát xuất, tự nhiên hòa nhau cho chí bảy báu, các báu ấy cùng nhau xây chuyển mà hợp thành.

 

Huyền nghĩa:

 

Cây có cành lá, có hoa có quả, mà lại bằng bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê…) là một điều lạ. Vì lạ nên phải hiểu là Phật đã phương tiện mượn cảnh thế gian để  đưa chúng sanh vào cảnh xuất thế gian.

 

bảy báu đã là “thất Thánh tài" (tín, giới, văn, tàm, quí, xả và huệ) thì những cây này cũng chỉ là “thất Thánh tài", hay là gốc của tín, giới, văn… Có người vì tín mà giữ giới (trong thí dụ cây lưu ly mà lá, hoa, trái pha lê chẳng hạn),hoặc biết thẹn mà xả (trong thí dụ cây san hô mà lá, hoa, trái mã não chẳng hạn). Cũng người nhờ tin mà giữ giới, mà nghe pháp, rồi được tàm, được quí, được xả, được huệ. Do đây Kinh nói: có thứ cây gốc vàng tín, thân bạc, lưu ly, đọt thuỷ tinh, lá san hô, hoa mã não.

 

Nói tóm, trong bảy đức kể trên, mỗi đức có thể hòa hợp với những đức khác, để đem lại cho tâm linh con người những hoa trái tinh thần tốt đẹp.

 

Nhưng muốn được kết quả ấy, các cây báu phải “hàng hàng ngang nhau, thân thân liền nhau, lá lá hướng nhau, hoa hoa thuận nhau, trái trái như nhau", có nghĩa là bảy đức tánh tín, giới, văn… phải đồng một sức mạnh như nhau, phải đồng thời phát huy với nhau, phải cùng hướng về một nẻo là giải thoát và kết quả phải thuận và như nhau.

 

XI. CÂY BÁU NƠI ĐẠO TRÀNG

 

Lại cây Đạo tràng của Phật Vô lượng Thọ, cao bốn trăm vạn lý, gốc tròn năm mươi do tuần, cành lá xòe bốn phía tới hai mươi vạn dặm. Tất cả các thp´ báu tự nhiên hợp thành; lấy ngọc ma bi nguyệt quang, báu trì hải luân là chúa của cá báu mà trang nghiêm cây ấy. Vòng quang đọt cây chuỗi ngọc anh lạc buông mành, trăm ngàn muôn sắc, thứ biến ra nhiều sắc khác nhau, ánh sáng rực rỡ không lường, soi sáng không biết đến đâu là cùng. Trên chót vót cây, có lưới báu lạ lùng phủ lên, làm cho mọi thứ trang nghiêm tùy ứng mà hiện. Khi có gió hiu hiu từ từ nổi lên và thổi vào cành lá, thì phát ra âm thanh của Diệu pháp không lường. Tiếng ấy tràn lan khắp các nước Phật. Những ai nghe được tiếng ấy thì được Pháp nhẫn thâm sâu, ở hẳn trong bất thối chuyển, cho tới khi thành Phật đạo, lỗ tai trong suốt, không gặp hoạn nạn. Mắt thấy được hình sắc, tai nghe được tiếng, mũi biết được mùi, lưỡi nếm được vị, thân đụng được ánh sáng của  cây Đạo tràng, tâm lấy “pháp” mà liên lạc được với cây ấy, thì tất cả đều được pháp nhẫn rất sâu, ở hẳn trong bất thối chuyển, cho tới khi thành Phật đạo, sáu căn trong suốt chẳng còn các sự phiền não hoạn nạn. Này A Nan! Hạng trời, người ở nước ấy mà thấy được cây Đạo tràng thì được ba pháp nhẫn: 1) âm hưởng nhẫn,  2) nhu thuận nhẫn, 3) vô sanh pháp nhẫn. Được ba pháp nhẫn ấy là do sức mạnh uy thần, sức mạnh bản nguyện, lời nguyện đầy đủ, lời nguyện rõ ràng, lời nguyện kiên cố, lời nguyện rốt ráo của Phật Vô lượng Thọ.

 

Phật bảo A Nan: Bậc đế vương ở thế gian có trăm ngàn thứ âm nhạc. Những âm nhạc ấy bị âm nhạc của Chuyển luân Thánh vương chí âm nhạc của cõi Trời thứ sáu thắng mất. Nhưng muôn thứ âm nhạc của cõi Trời thứ sáu không bằng âm thanh của những cây bảy báu ở nước Phật Vô lượng Thọ, vì âm thanh nay hay hơn âm nhạc kia ngàn ức lần. Lại nữa (ở nước Phật), còn muôn thứ múa hát âm nhạc tự nhiên, và tiếng nhạc ấy, không tiếng nào là không phải tiếng pháp, trong trẻo, líu lo, mầu nhiệm, êm đẹp, bậc nhứt của mọi thứ tiếng trong mười phương thế giới. 

 

Huyền nghĩa:

 

Cây báu nơi Đạo tràng: ám chỉ cây Bồ đề, nơi  đức Phật Thích Ca đắc đạo.

 

Trong nhân gian, cây này có tên là Acavatha hay Pippala. Vì cây đã chứng kiến sự Đại giác của Đức Phật nên người đời cho cây có tính cách linh hiển và đặt cho một biệt danh là Bodhivriksa hay Bodhidruma (cây Bồ đề). Mà Bồ đề là “giác”, vậy cây Bồ đề là cây Giác ngộ, và khi nói đến cây là ý muốn nói đến sự giác ngộ.

 

Kinh Vô Lượng Thọ nói cây Bồ đề của Phật Vô Lượng Thọ cao 400 vạn lý, gốc tròn 50 do tuần, cành lá xòe ra  4 phía tới  20 dặm, và vây ấy cũng do  7 thứ báu hợp thành. Ý nói có  7 đức (thất Thánh tài) mới có Giác ngộ, và cái giác ngộ này là Đại Giác ngộ cho nên cao lớn và rộng trùm như đã ví dụ ở trên.

 

Trên cây Đạo tràng lại còn được trang hoàng bằng những chuỗi ngọc ma ni nguyệt quang (dụ cho huệ) và báu trì hải luân (dụ cho giới). Không trí huệ, không giữ giới thì không bao giờ đắc Đạo được.

 

Thấy được, tiếp xúc được với cây Đạo tràng, tức là thể hiện được sự giác ngộ. Có giác ngộ, là có ba thứ nhẫn: 1) âm hưởng nhẫn (như niệm Phật mà có tiếng vang trong tâm là hướng nội có kết quả và con người không còn chạy theo tiếng của trần thế nữa); 2) nhu thuận nhẫn (vì chạy theo ngoài nên tranh chấp, nay đã vào trong thì phải mềm dịu thuận hòa); 3) vô sanh pháp nhẫn (tâm hết tạo nghiệp).

 

Làm sao thấy được cây Đạo tràng (được Giác ngộ)? Phải phát nguyện một cách đầy đủ, rõ ràng, kiên cố, rốt ráo, tức là phải có cái muốn cương quyết (volonté inébranlable). Chỉ có sức mạnh của cái muốn ấy mới đưa chúng sanh đến dưới cây Đạo tràng (tới chỗ Giác ngộ).

 

Âm nhạc của thế gian,của cõi trời làm vui thức mà không làm tỉnh tâm, làm dấy tính mà không làm phát huệ. Chỉ có khúc nhạc vi diệu,do bảy đức hòa nhau trong chân tâm, thực tánh, mới là khúc nhạc hay vì nó giải. Càng nghe được thứ nhạc ấy, càng thấm Đạo pháp.

 

(trích tạp chí Từ Quang số 124, tr.38-43, 

Sài Gòn tháng 5 năm 1962)

 

XII. NHÀ CỬA CUNG ĐỊÊN

 

Giảng đường, tinh xá, cung điện, lầu quán trong nước Phật đều trang sức bằng bảy thứ báu, tự nhiên hóa thành. Lại lấy trân châu, ngọc ma ni minh nguyệt kết thành xâu, phủ trùm lên các nhà ấy. 

 

Huyền nghĩa:

 

 Ở thế gian, nhà cửa cung điện đều bằng vật chất. Sống trong nhà cửa đó là sống trong vòng vật chất, trong không khí vật chất mà đặc tánh là ô nhiễm, là thất đức…

 

Những tâm hồn đầy đủ bảy đức (thất Thành tài) là những tâm hồn thanh tịnh, và một khi đã thanh tịnh những tâm hồn ấy không làm sao không sống trong phạm và không khí của bảy đức. Vì vậy mà Kinh quyền nói là sống trong những cung điện bằng bảy báu.

 

Các nhà cửa cung điện ấy lại còn được chuỗi ngọc ánh sáng trùm lên. Thí dụ này có nghĩa: sống trong bảy đức, dưới sự soi sáng của ma ni Bát nhã là huệ. 

 

Nói tóm và rõ ràng: Hễ có thanh tịnh là có Huệ.

 

Kinh A Di Đà đã lặp đi lặp lại bốn lần câu này: “Cực lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm” với nghĩa: Nước Cực lạc mà xây đắp được như vậy, là nhờ sự tô bồi của các công đức. Công đức là công án về mặt đạo đức (mérite moral), vậy nước Cực lạc là một nước xây dựng bằng đạo đức, và như thế thì đừng mong tìm nó trong vô số thế giới của Khoa Thiên văn…

 

Chúng ta làm được một công đức là chúng ta đã mua được một viên gạch để xây dựng tòa lâu đài của ta ở nước Vui sướng vô cùng vô cực rồi đó.

 

Trong, ngoài, trái, mặt, có những hồ tắm, hoặc mười do tuần, hoặc hai mươi, ba mươi cho chí trăm ngàn do tuần, dài, rộng, sâu, cạn đều một loạt như nhau. Các hồ ấy đầy dẫy nước tám công đức yên lặng, trong trẻo, thơm sạch, vị như cam lộ. Hồ vàng ròng thì đáy tráng cát bạc; hồ bạc trắng thì đáy trát cát vàng ròng; hồ thủy tinh thì đáy tráng cát lưu ly; hồ lưu ly thì đáy cát tráng cát thủy tinh; hồ san hô thì đáy tráng cát hổ phách; hồ hổ phách thì đáy tráng cát san hô; hồ xa cừ thì đáy tráng cát mã não; hồ mã não thì đáy tráng cát xa cừ; hồ ngọc trắng thì đáy tráng cát vàng tía, hồ vàng tía thì đáy tráng cát ngọc trắng.Hoặc có hai món báu, ba món báu cho đến bảy món báu trộn lộn với nhau hòa hợp lại mà thành.

 

Trên bờ ao ấy, có cây chiên đàn, bông lá rũ tỏa ra, mùi thơm xông cùng tất cả. Nhưng hoa cõi Trời như Ưu bát la, Bát đàm ma, Câu mâu đầu, Phân đà lỵ, xen lộn mọi màu sáng tốt, phủ khắp trên mặt nước.

 

Chư Bồ tát, Thanh văn ở cõi ấy, hễ xuống các hồ báu này ý muốn cho nước ngập chân,thì nước ngập chân; ý muốn cho nước tới gối, nước liền tới gối;  ý muốn cho nước tới lưng, nước liền tới lưng; muốn cho nước tới cổ, nước liền tới cổ; muốn cho xối lên thân, tự nhiên nước xối lên thân; muốn cho trở lại như cũ, nước liền trở lại. Nước ấy làm sáng tinh thần, làm đẹp thân thể, rửa sạch hết chất dơ trong tâm, trong sáng lắng sạch,không gợn, gần như vô hình. Cát báu ánh suốt, không chỗ sâu nào không chiếu tới. Sóng nhỏ chảy vòng, xây lộn xối rót với nhau, an lành và từ từ chảy luôn, chẳng mau chẳng chậm. Sóng reo lên không kể xiết những tiếng mầu nhiệm tự nhiên. Tùy theo chỗ ứng, không ai không nghe: hoặc nghe tiếng Phật, hoặc nghe tiếng Pháp, hoặc nghe tiếng Tăng, hoặc nghe tiếng của sự Vắng lặng (tịch tĩnh), tiếng của Không, của Vô ngã, tiếng của Đại Từ bi, tiếng của Ba la mật, hoặc tiếng của Thập lực, Vô úy Bất cộng pháp,các tiếng của Sự Thông tuệ, tiếng của Vô sở tác, tiếng của Bất khởi Bất diệt, tiếng của Vô sanh nhẫn, cho đến tiếng pháp mầu của Cam lộ quán đảnh. Những tiếng như thế, xứng với những gì mà những tiếng ấy nghe được, vui mừng không kể xiết,tùy thuận theo nghĩa của Thanh tịnh, Ly dục, Tịch diệt,Chân thật, tùy thuận theo cái pháp Vô sở uý và Bất cộng của sức Tam bảo,tùy thuận theo con đường  đi của các bậc Thông tuệ Bồ tát, Thanh văn. Không có những cái danh Tam đồ, khổ nạn, chỉ có cái tiếng tự nhiên khoái lạc. Bởi cớ, nước ấy tên gọi là Cực lạc.

 

Huyền nghĩa:

 

Hồi xưa và nhất là bên Ấn Độ, dân chúng thường chỉ có một lối tắm là tắm trong ao. Mà ao của thế gian thì đáy bùn nước đục. Tuy nhiên, không nước ao thì con người không còn phương nào khác để gội rửa những bụi nhớp làm bẩn thân. 

 

Nhưng chẳng phải chỉ có thân mới bị bụi trần làm dơ. Hàng ngày tâm con người cũng bị bụi trần làm ô trược. Là thế nào để tẩy đây?

 

Phải tắm, không phải trong ao vật chất thế gian mà trong ao bảy báu, đầy nước tám công đức. 

 

Theo Phật học Đại từ điển, chẳng những ở ao Cực lạc có thứ nước lạ lùng này, mà ở các biển trên núi Tu di và bảy Núi Vàng (Thất Kim sơn) cũng đầy dẫy.

 

Còn tám công đức của nước là gì? - Kinh “Xưng tán Tịnh độ” nói: “Sao gọi là nước tám công đức? Một là loóng sạch, hai là trong lạnh, ba là ngọt ngon, bốn là nhẹ mềm, năm là nhuần thấm, sáu là an hòa, bảy là khi đang uống thì trừ được vô lượng sai lầm lo nghĩ của sự đói khát, tám là khi uống xong rồi thì nhất định các căn được trưởng dưỡng, thân thể được thêm mạnh khỏe".

 

Vậy muốn tắm, muốn uống được nước ấy, cần phải sang Cực lạc thế giới, nghĩa là phải giữ lòng thanh tịnh, không thì phải leo lên núi Tu di, nghĩa là cất mình, đưa tâm hồn mình lên chỗ cao thật cao, đừng để nó là đà dưới mặt đất thế sự. Cảnh thật cao ấy là cảnh Giải thoát. Hoặc nữa phải leo lên bảy ngọn Núi Vàng, là bảy nấc của chiếc thang Chánh định. 

 

Nói trắng, muốn tắm mình trong ao đạo đức, để hưởng được cái sạch trong, lạnh mát, ngọt ngon, nhẹ nhàng, an hòa, thay cho cái dơ bẩn, nóng, bức, cay chua, nặng nề, tranh chấp của nhà lửa thế gian, thì phải áp dụng một trong ba phương pháp này là Thanh tịnh, Giải thoát và Chánh định. 

 

Vì ý này, mà Kinh nói: “Nước ấy làm sáng tinh thần, làm đẹp thân thể, rửa sạch chất dơ trong tâm…”


Tùy mình, tùy sự cương quyết và công phu của mình mà được thanh tịnh, nhiều hay ít. Do đây Kinh nói: “Chư Bồ tát, Thanh văn ở cõi ấy, hễ xuống ao rồi,ý muốn cho nước ngập chân, thì nước ngập chân; ý muốn cho nước tới gối, nước liền tới gối…”


Xuống ao chẳng những tắm trong nước sạch mát, mà còn hưởng được cái thơm của Thiện mà Kinh tượng trưng bằng mùi ngạt ngào của những hoa báu cõi Trời.


Đã là ao thì lẽ ra không có sóng. Nhưng vẫn có, khác chăng là sóng ở ao bảy báu không gào thét làm đinh tai nhức óc như sóng của biển trần.Trong thanh tịnh, con người nghe được tiếng sóng nhiệm mầu ấy, vì là tiếng của Giác ngộ (Phật), của Luật thiên nhiên (Pháp), của sự Điều hòa trong vũ trụ hay Harmonie universelle (Tăng). Tâm còn nghe được tiếng nói của tự mình (Tịch tĩnh) và nhiều tiếng khác đều là những lời tự mình nhắc nhở với mình những chân lý bất diệt như: vạn vật là không, ngã là cái gì không có thật…

Những tiếng ấy tùy thuận theo Thanh tịnh, Ly dục, Tịch diệt, nghĩa là khi tâm không trong sạch, không xa lìa mọi ham muốn, không vắng lặng, thì không bao giờ những tiếng ấy phát ra.

 

Thật vậy, làm sao nghe được tiếng của Từ bi, thí dụ khi lòng ta còn vang dội tiếng của tham sân?

 

XIV. THỰC TỰ NHIÊN

 

Này A Nan! Những ai sanh sang được nước Phật ấy thời có đầy đủ nào sắc thân thanh tịnh, nào những tiếng nhiệm mầu,nào những thần thông công đức như vậy. Nơi cung điện của các vị vãng sanh ấy ở, những quần áo, món ăn thức uống, những vật dùng trang sức bằng các thứ hoa thơm mầu nhiệm, tất cả những vật ấy đều giống như những vật tự nhiên ở cõi Trời thứ sáu. Hễ đến giờ muốn ăn, thì những bát (chén) bằng bảy báu tự nhiên có trước mặt. Những bát bằng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách và trân châu minh nguyệt, tùy ý mà tới. Trăm thức ăn uống tự nhiên đầy đủ. tuy có những món ăn ấy, thực ra không có cái việc ăn, chỉ có thấy hình dáng, ngửi mùi, rồi ý cho là đã ăn thời tự nhiên no đủ, thân tâm mềm dẻo, chứ không có cái việc nếm vị. Xong Rồi là bữa ăn biến mất, tới bữa ăn khạc lại hiện ra nữa. 

 

Nước của đức Phật ấy trong sạch, an ổn, mầu nhiệm, vui sướng gần như cõi Biết bàn vô vi vậy.

 

Huyền nghĩa:

 

Cảnh Cực lạc là cảnh của tâm thanh tịnh, mà tâm thường còn không cần những quần áo, món ăn thức uống vật chất, hà huống tâm thanh tịnh.

 

Nhưng vì con người, quá đắm say đời sống vật chất, cho nên để giúp con người mạnh dạn tu hành,không sợ Cực lạc thiếu ăn, thiếu mặc, Phật mới “phương tiện” lấy việc thế gian mà dẫn dụ. 

 

Đứng về mặt khác mà xét thì thấy, tuy tâm nào phải thân mà cần ăn cần mặc đồ vật chất, tâm vẫn còn cái thèm. Có người thèm đến thấy ăn, thấy mặc như ý muốn trong giấc chiêm bao. Có người khác, ngay trong lúc thức, thèm quá đến thấy vật thèm trong tưởng tượng mà chảy nước dãi.

 

Tâm người tu hành thanh tịnh không có những thèm khát vật chất đó, nhưng có những thèm khát đạo đức, những món ăn TINH THẦN.

 

Món ăn mặc vật chất, muốn có, phải tạo, nào mấu nướng, nào may cắt; còn về tinh thần muốn mặc áo nhẫn nhục chẳng hạn, là có nhẫn nhục liền, cần gì may cắt; muốn tận hưởng cái vị của hỷ xả, là ăn được hỷ xả ngay, cần gì nấu nướng. Do vậy  kinh nói các thứ ấy “tự nhiên đầy đủ”.

 

Lại nữa, nói món ăn tinh thần, thật ra nào có cái việc ăn như ăn cơm, ăn bánh. Chỉ là một thí dụ thôi. Sợ người nghe Phật, đọc Phật nghĩ sai hiểu lầm Kinh thêm: Không có cái việc ăn.

 

Cứ nhớ lại những việc Kinh nói, như các vật đều trang sức bằng các thứ hoa thơm mầu nhiệm,như bát chén bằng bảy báu và tự nhiên hiện bày, khỏi cần mua sắm, như ăn xong là bát chén cũng như món ăn còn dư đều biến mất để hiện trở lại, đủ thấy Phật muốn nói đến cái gì cách biệt hẳn chuyện thế gian.

 

Một bằng chứng khác để đánh đổ cái tin sai lầm là Thế giới Cực lạc nằm trong số thế giới do Thiên văn học tìm thấy!

 

Câu chót của đoạn XIV trên đây hàm chứa một cách quá rõ rệt cái nghĩa ẩn của lời Phật nói: “Nước của đức Phật ấy (Vô lượng thọ) trong sạch,an ổn, mầu nhiệm,vui sướng gần như cõi Niết bàn vô vi vậy”. Một thế giới của vũ trụ hữu vi mà vui sướng gầnnhư Niết bàn vô vi là đều không thể có được. 

 

(trích tạp chí Từ Quang số 125, tr. 33-39

Sài Gòn tháng 6 năm 1962)

XV. NHAN SẮC, DUNG MẠO ĐOAN CHÁNH

 

Những Thanh văn, Bồ tát, thiên, nhân trong nước Phật trí tuệ cao sáng, thần thông rỗng suốt, đều đồng một loại, hình không khác trạng. Chỉ vì để thuận theo các phương pháp cho nên mới đặt ra những cái danh thiên, nhân vậy thôi. Nhan sắc, dung mạo của hàng thiên nhân này ngay thẳng ngoài trần, it´ có. Dungmạo, hình dáng của họ mầu nhiệm, chẳng phải trời, chẳng phải người; tất cả đề tự nhiên hưởng được cái thân hư vô, cái thể vô cực.

 

Phật bảo A Nan: Ví như trên đời có kẻ ăn mày nghèo cùng đứng cạnh một nhà vua, hình mạo dung trạng đôi bên có thể như nhau không?

 

A Nan bạch Phật: Giả như kẻ ăn xin kia có đứng gần bên vua đi nữa thì cái thân tong teo, quê mùa, xấu xa của anh ta làm sao đem so sánh với dung mạo của nhà vua được, vì kém xa đến trăm ngàn muôn ức lần, không thể nói xiết được. 

 

Sở dĩ có điều ấy vì kẻ nghèo khó ăn xin, rơi sâu xuống chỗ thấp, áo chẳng che thân, ăn không đủ nuôi mạng, đói rét khốn khổ, làm ăn nguy ngập, đều tại đời trước không trồng gốc lành, chứa của không cho, giàu thêm ích kỷ, lại thêm tham muốn không chán, chẳng tin tu thiện, phạm ác như núi. Sống như vậy cho nên khi chết, tiền của tiêu tán, khổ thân chồng chất tạo nên phiền não, với mình còn không ích lợi gì, hà huống đối với người khác, không lành để nhờ, không đức để tựa, bởi cớ, chết rồi thì rơi vào nẻo ác, chịu khổ dằng dai. Tội hết, tái sanh vào nơi thấp hèn, ngu quê cùng cực đối với người đồng loại. Sở dĩ ở thế gian, các bậc vua chúa là bậc độc tôn trong loài người là vì nhờ đời trước đã chứa đức, thương yêu, cho rộng, nhân ái giúp đỡ, tin tưởng, sửa lành, không điều trái ngược. Nhờ đó mà khi tuổi thọ chấm dứt,phước ứng được lên Thiện đạo. Nếu là bậc cao thì sanh về cõi Trời, hưởng nhiều phước lạc. Cái dư thưởng của việc làm lành, là được làm người, sanh vào nhà vua chúa, tự nhiên được quý trọng, dung mạo đoan chánh, ai thấy cũng kính, tùy lòng mà ăn ngon mặc đẹp, đó là nhờ chứa đức mà được như vậy.

 

Phật bảo A Nan: Ngươi nói phải đó. Kể ra thì nhà vua, tuy là bậc tôn quý trong loài người, hình dáng đoan chánh,nhưng đem ra sánh với hàng Chuyển luân Thánh vương, thit thật rất quê mùa, chẳng khác nào anh ăn xin a đừng gần nhà vua vậy. Còn bậc Chuyển luân Thánh vương, oai tướng tốt đẹp lạ thường,hạng nhất trong thiên hạ, nhưng ví với Đao lợi Thiên vương (Đế thích) lại quá xấu xa, chẳng thể so sánh được với bậc muôn ức lần trội hơn. Nay giả sử đem Thiên Đế ra so sánh với vị Thiên vương cõi trời thứ sáu (Tha hóa Tự tại Thiên vương), thì cái khác tới trăm ngàn ức lần. Bây giờ lấy vị Thiên vương cõi Trời thứ sáu mà so sánh với các vị Bồ tát, thanh văn trong nước của Phật Vô Lượng Thọ thì nhan sắc sáng suốt của  Thiên vương chẳng kịp nhan sắc trội hơn ngàn muôn ức lần của Bồ tát, Thanh văn.

 

Huyền nghĩa:

 

Nước của Phật Vô Lượng Thọ là cảnh của tâm thanh tịnh ở chớ không phải của thân xác thịt, mà tâm nào cũng như tâm nào, cho nên Kinh nói “thân của người Tịnh độ đồng một loại”.

 

Hình không khác trạng là tùy việc thế gian mà huyền nói, chớ tâm làm gì có hình có trạng, và cũng tùy việc thế gian mà có chia thiên, có nhân là hai hạng chúng sanh cao thấp khác nhau trong tam giới.

 

Vì sợ người đọc nghe hiểu lầm, Kinh thêm câu chót mà nghĩa sâu như thế này: Nếu dân chúng cõi Cực lạc mà có thân thì thân ấy là thân hư vô (không không, trừu tượng, abstrait), còn thể của thân ấy là thể vô cực (tuyệt đối, principe absolu).

 

Thân người ăn mày - hàng thiếu đức - không đẹp bằng thân một ông vua - hàng có đức. Thân một ông vua không bằng thân của một Đại đế (Chuyển luân Thánh vương), sánh với thân các Vua trời là hàng có đức cao hơn nữa, lại kém xa. Nhưng nhan sắc sáng suốt của bậc vua Trời cao nhất, đem so sánh với nhan sắc sáng suốt của Bồ tát, Thanh văn cõi Tịnh độ, lại kém hơn ngàn muôn ức lần.

 

Vậy rõ đức không chẳng đủ, mà phải vừa có đức, vừa thanh tịnh, cái sáng suốt mới to. Sáng suốt là Huệ vậy, và vì có Huệ mới giải thoát mới “thành Phật”, cho nên Kinh nhấn mạnh điểm này.

 

Có hai thứ đẹp: một của thân một của tâm hồn. Nhưng dầu là của tâm hồn, cũng phải do thân mà đoán. 

 

Đẹp thân của thân cũng có hai thứ , đẹp lành và đẹp ác.

 

Đẹp ác là cái đẹp quyến rũ, cái đẹp khiêu dâm, chứng tỏ một tâm hồn bất chánh, đa dục. 

 

Đẹp lành là cái đẹp hiền hòa, nhu thuận,chứng tỏ một tâm hồn chân chánh, thanh tịnh, trang nghiêm.

 

Sự sai khác giữa hai cái đẹp này dễ nhận ở chỗ cái đẹp ác không sáng, còn cái đẹp lành thì hực hỡ như vừng thái dương.

 

Vậy thân nào đẹp sáng bao nhiêu, thì trí đức của thân ấy cũng tốt đẹp bấy nhiêu. Nhưng đã còn là chúng sanh, dầu là hạng thiện nhiều ác ít (Thiên) đi nữa, thì tâm vẫn chưa phải là tâm thanh tịnh như hàng vị tha (Bồ tát) và thức tỉnh (Thanh văn) đã đắc thanh tịnh (ở nước Cực lạc). Do đây Kinh bảo cái đẹp tâm hồn của tất cả các hạng chúng sanh, từ thấp lên cao, đều không bằng cái đẹp tâm hồn của những bậc vị tha, thức tỉnh an trú trong chánh định.

 

Phật bảo A Nan: Những quần áo, miếng ăn, thức uống, hoa hương, chuỗi mũ, cờ xí, âm thanh hết sức nhiệm mầu, nhà cửa, cung điện,lầu gác của những trời, người nơi nước Phật Vô lượng thọ, đều tùy hình sắc của họ mà cao thấp, lớn nhỏ, hoặc bằng một báu, hai báu, chí đến vô lượng thứ báu. Tùy ý muốn của họ, mà những thức này có ngay. Lại lấy áo mầu nhiều báu trải khắp mặt đất, tất cả trời, người đặt chân lên đó mà đi. Vô số lưới báu che trên đất Phật, cũng đều bằng vàng ngọc thật, trăm ngàn  đủ thứ báu, lạ mầu quý khác, treo qua vắt lại trang nghiêm,bao quanh bốn mặt. Trên không lại còn những chuông báu tòng teng, sắc sáng lòa mắt,hết sức là nghiêm trang tốt đẹp. Tự nhiên gió đức chậm rãi nổi lên khẽ động, điều hòa, chẳng lạnh chẳng nóng ấm áp mềm mại, chẳng mau chẳng chậm, thổi vào các lưới cùng các cây báu, làm phát sanh vô lượng tiếng pháp nhiệm mầu và làm lan cùng muôn thứ hương đức đẹp ấm. Ai nghe được tiếng gió ấy thì những lao khổ thế gian, những tập quán nhơ bẩn tự nhiên chẳng khởi. Gió đụng đến thân, liền được khoái lạc tỷ như các vị Tỳ khưu được “tam muội tận diệt”.

 

Huyền nghĩa:

 

Người đức hạnh, thanh tịnh, sống cho tâm mà không sống cho thân, vì vậy lấy đức và thanh tịnh mà làm thức ăn thức mặc, làm nơi trú ẩn (nhà cửa, lầu gác) cho tinh thần. Đức to thì bủa rộng, chỗ an trú cao lớn; đức nhỏ thì bủa hẹp, chỗ an trú thấp hẹp, như tùy thân mà xây nhà cao thấp, lớn bé. Đây là ý của câu kinh: “...lầu gác của những trời, người nơi nước Phật Vô lượng Thọ, đều tùy hình sắc của họ mà cao thấp, lớn nhỏ…”

 

Những lầu gác ấy còn hoặc bằng một báu, hai náu chí đến vô lượng thứ báu, nghĩa là họ muốn xây lầu cho tâm họ ở bằng toàn một thứ báu Từ, hay bằng nhiều thứ náu khác như Bi, Hỷ, Xả, v.v…đều được hết, không bị một gì ngăn ngại. Và tùy ý muốn của họ mà họ có ngay những vật liệu để xây cất những lầu gác ấy. Thật vậy, chúng ta muốn có Từ không? Cứ muốn là có ngay, chúng ta không đợi giàu hay đợi có phép mới mua được.

 

Dưới chân đi thì có thảm áo báu, trên đầu che thì có lưới lạ chuông linh. Câu này có nghĩa: hễ đắc thanh tịnh (người của nước Phật Vô Lượng Thọ) thì đi, đứng, nằm, ngồi, hoàn toàn được bao bọc trong đức hạnh và trí huệ, không một chỗ hở. 

 

Trong cảnh ấy, dầu có gặp cơn gió lốc tức là những cảnh bên ngoài thường làm cho mừng, giận, thương, vui…nổi lên- người thanh tịnh vẫn thấy tâm mình chỉ khẻ động chớ không xao xuyến nhiều, điều hòa mà không bồng bột. Nếu từ trong cái khẽ động điều hòa ấy có một tiếng phát ra sai sử, nhất định tiếng đó là tiếng của Chân lý (Pháp), chớ không phải của Hư vọng.

 

Nghe được tiếng của Chân lý, làm gì không làm theo Chân lý. Làm theo chân lý là hợp với đức. Hợp với đức cho nên tiếng thơm (hương đức) được lan, thân tâm nhẹ nhàng (những lao khổ thế gian và những tập quán nhơ bẩn tự nhiên chẳng khởi). Hưởng được cái mát mẻ nhẹ nhàng ấy, là hưởng được một khoái lạc tinh thần y như cái khoái lạc tinh thần của các bậc tu hành đã vào chánh định và diệt trừ mọi vọng tưởng đến tận gốc.

 

Lại nữa, gió còn rải hoa đầy khắp nước Phật, thứ lớp tùy màu không hề xáo trộn, mềm mại, bóng dợn, mùi hương nồng nhiệt. Chân bước trên đất ấy thì đất lún xuống bốn tấc, nhưng khi giở chân lên thì mặt đất trở lại như cũ. Hoa rải xong là tiêu mất, mặt đất hiện bày trở lại sạch sẽ như trước, không hề sai chạy. Tùy thời tiết, gió thổi tung hoa như vậy quanh đi quanh lại sáu lần. Lại nữa, những hoa sen bảy báu đầy khắp thế giới, mỗi mỗi hoa báu có trăm ngàn ức lá màu sắc trong sáng không thể nói xiết. Sen xanh thì sáng ánh xanh, sen trắng thì sáng ánh trắng, tím, vàng, đỏ, tía cũng tùy màu mà sáng ánh như thế, hực hỡ hơn mặt trời mặt trăng. Từ trong mỗi hoa, phát ra hơn mặt trời mặt trăng, ngàn, ức ánh sáng; từ trong mỗi luồng ánh sáng, lại phát ra ba mươi sáu trăm, ngàn luồng ánh sáng khác, soi cùng mười phương, tuyên thuyết pháp mầu. Như thế, chư Phật an lập vô lượng chúng sanh trong chánh đạo của Phật.

 

Huyền nghĩa:

 

Gió rải hoa là gió làm rụng hoa, mà mỗi hoa ở Tịnh độ là một trong bảy báu (bảy đức), vậy mỗi màu xanh, trắng, vàng, tím…nói trong Kinh là tượng trưng cho mỗi đức.

 

Nên hiểu một cách chân chánh nghĩa của thanh tịnh, mẹ đẻ của chánh định.

 

Định mà bất động, đức Lục tổ bảo là cây đá. Mà con người là loài có tri giác, thì bảo bất động sao được? Vậy bản chất của con người là động.

 

Có hai lối động, một theo thường tình (bất thanh tịnh), một theo lối Cực lạc (thanh tịnh).

 

Vậy dầu là đắc thanh tịnh rồi, tâm người tu vẫn còn động, vẫn còn bị gió làm rụng hoa. Nhưng hoa gì? Phải chăng những thứ hoa dại độc hại, giết người, giết mình? Không. Toàn là những hoa đức, và mỗi thứ phân biệt, thứ lớp tùy màu, như lúc hoa “biết hổ thẹn” (tàm) phải rơi là rơi, hay lúc hoa “tự tin” (tín) phải rớt là rớt, không xáo trộn như trên miếng đất tâm phàm bất tịnh mà đôi thứ xà ngầu, làm cho con người vừa biết hổ thẹn cho việc xấu vừa làm, mà cũng vừa quá tự tin đến nỗi bênh mình mà chối ác.

 

Lại nữa, người thanh tịnh là người đã xả kỷ, quên mình cho nên khi đáng và phải hổ thẹn (đi trên mặt đất rải hoa), là đi sâu vào cái hổ thẹn ấy (mặt đất lún xuống) để thấy thật rõ lỗi mình, không như người thế gian uế trược, tuy cũng biết hổ thẹn, nhưng chỉ đi phớt trên mặt. 

 

Một cái khác nữa giữa đôi đàng, thanh tịnh và bất thanh tịnh, là người Cực lạc không nắm giữ cái hổ thẹn mãi, để rồi chán nản sanh hờn. Một khi đã biết xấu hổ và hối cải xong, là rồi, tâm trở lại quân bình (mặt đất trở lại như cũ, hết lún, và hoa cũng hết rơi).

 

“Tùy thời tiết, gió thổi tung hoa như vậy, quanh đi quanh lại sáu lần”. Sáu lần ám chỉ sáu giờ, tức là ngày đêm, theo lối tính thuở xưa (ngày đêm 6 giờ: trú dạ lục thời), sau chia làm 12, bây giờ chia làm 24. Vậy một giờ hiện nay bằng ¼ giờ hồi xưa.

 

Ý nghĩa của câu kinh vừa nhắc lại là: Tùy việc mà cho tung một trong các thứ hoa báu - nên hiểu tùy trường hợp mà gieo, mà làm nảy nở những hoa đức hạnh, nhưng nhớ là đừng cho gián đoạn, mà phải liên tục mãi, ngày đêm nào cũng như ngày đêm ấy. Có như thế, ánh sáng của các đức mới hực hỡ, tức là mới tăng lên, và tâm mới nằm yên trong con đường giải thoát  (an lập trong chánh đạo của Phật).

 

(trích tạp chí Từ Quang số 126-127, tr. 61-67,

Sài Gòn tháng 7-8 năm 1962)