I.- Lời Kệ của Thiền-sư Chân-không
Bài thơ xuân đầu tiên là lời kệ của thiền-sư Chân-không (946-1001).
Người đời luôn luôn có nhiều thắc mắc mà khi không giải đáp được một cách thỏa đáng thì sinh ra đau khổ, buồn sầu. Một trong những thắc mắc đó, và có thể coi là thắc mắc lớn lao, quan trọng nhất, khiến nhiều người phải bận tâm nhất, là sự sống chết của con người.
Từ nghìn xưa, con người vẫn thắc mắc là mình từ đâu đến và khi chết sẽ đi đâu, cũng như thắc mắc là con người sinh ra ở trên đời để làm chi bởi vì trước sau, sớm muộn gì, con người cũng phải chết. Do đó mới có tình trạng con người tham sống sợ chết, và tìm đủ trăm phương nghìn kế để kéo dài cuộc sống của mình. Việc Tần Thủy-hoàng-đế Doanh-Chính 秦始皇帝 嬴政 (Tần-vương năm 246-221 TCN và Thủy-hoàng-đế năm 221-209 TCN) năm 219 TCN đã sai Từ-Phúc 徐福 dẫn hơn một nghìn đồng nam đồng nữ vượt biển đi tìm thuốc trường sinh bất tử, cũng như việc Hán Vũ-đế Lưu-Triệt 漢武帝 劉徹 (tại vị năm 140-86 TCN) cho luyện kim đan để mong được sống lâu, là những thí dụ điển hình.
Ngay cả các vị tu sĩ vốn không nên có những thắc mắc về vấn đề sống chết của con người, nhưng cũng có một vài vị vẫn cưa đạt được đến độ này. Chẳng hạn có một vị tăng một hôm đến hỏi thiền sư Chân-không là khi xác thân người ta bại hoại thì sẽ như thế nào. Thiền sư Chân-không bèn đáp bằng hai câu kệ:
春來春去疑春盡,
花落花開只是春.
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận,
Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân.
Hai câu này đã được cố giáo sư Nguyễn-đăng-Thục (1909-1999) dịch sang Việt ngữ như sau:
Xuân qua xuân lại ngờ xuân tận,
Hoa nở hoa tàn vẫn là xuân.
Thiền sư Thích Thanh-từ (s. 1924) cũng dịch tương tự:
Xuân đến, xuân đi ngỡ xuân hết,
Hoa nở hoa tàn chỉ là xuân.
Trong khi hai dịch giả trên khi dịch sang thơ Việt ngữ vẫn giữ nguyên thể thất ngôn của nguyên tác thì Phạm-tú-Châu lại dịch theo thể lục bát:
Xuân qua lại, ngỡ xuân tận,
Hoa dù rụng nở, vẫn hoàn tiết xuân.
Thiền sư Chân-không đã mượn trạng thái xuân đến và xuân đi, cũng như hình ảnh hoa nở hoa tàn, để nói lên một sự thực không ai phủ nhận, dị nghị được: đó là đừng nên nghĩ rằng sau khi xuân đến rồi đi thì cho rằng xuân đã hết, đã tận, và không bao giờ còn nữa, cũng như đừng cho rằng khi hoa nở thì xuân đến còn lúc hoa tàn thì xuân đã hết. Sự thực thì xuân chỉ có tuần hoàn, nghĩa là xuân đến rồi đi, rồi lại đến rồi lại đi, cứ tiếp tục như vậy từ thuở khai thiên lập địa cho đến hiện tại và sẽ còn tiếp diễn trong tương lai cho đến vô cùng tận. Nói cách khác, xuân là một trạng thái thiên nhiên bất biến; còn sự đến và đi của xuân, cũng như sự nở và tàn của hoa, chỉ là một sự tuần hoàn thôi.
Con người cũng vậy. Tuy nhìn bề ngoài chúng ta thấy rõ ràng con người sinh ra, lớn lên, rồi chết đi, nhưng cái mà chúng ta nhìn thấy đó chỉ là cái thân xác, cái sắc, cái tướng thôi. Nó chỉ là cái hình thể vật chất, nghĩa là cái vẻ bề ngoài, luôn luôn thay đổi, nên có tính cách phù du, tạm bợ. Đó là cái nhìn của người phàm. Trái lại, nếu suy ngẫm kỹ hơn, chúng ta sẽ nhận thấy cái mà chúng ta nhìn thấy và gọi là thân xác, thực ra chỉ là một tổng hợp của nhiều yếu tố, như: máu, thịt, da, xương, tủy, gân, v.v. Tất cả những thứ ấy là những yếu tố bất chắc, không bền vững, dễ bị hủy hoại, dễ hư nát. Đó không phải là con người thật. Giống như mùa xuân có đến có đi, nhưng xuân vẫn là xuân, bởi vì xuân bất biến, con người thể xác tuy trải qua các giai đoạn sinh ra, lớn lên, rồi chết đi, thân xác tiêu tan hết, nhưng con người thật, nghĩa là cái hồn của con người, vẫn còn, bởi vì nó cũng bất biến.
Nếu con người đã như vậy thì còn thắc mắc đến cái còn, cái mất, cái bại hoại của thân xác mà làm chi? Chúng ta không nên chấp vào cái lý của mình để nhìn vào thế gian và sự đời, mà phải biết tự lọc lấy cái tâm mình, để có thể hòa mình vào với vũ trụ thiên nhiên. Hay như lời giáo sư Nguyễn-Đăng-Thục,
"… thực tại nguồn sống thường nhiên tiềm tàng linh động đằng sau hiện tượng thiên hình vạn trạng, hiện tượng hủy diệt biến đổi, ẩn hiện, mà cái nguồn sống đại đồng sinh sinh tự nhiên luôn luôn tồn tại, không có sống chết bất di bất dịch."(1)
Tiện đây chúng tôi xin mở một dấu ngoặc để nói là câu thứ hai lời kệ của thiền sư Chân-không "Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân" nếu dịch đúng nguyên văn sẽ là "Hoa rụng hoa nở chỉ là xuân." Tuy nhiên, câu này đã được giáo sư Nguyễn-đăng-Thục dịch là "Hoa nở hoa tàn vẫn là xuân", và Phạm-tú-Châu dịch là “Hoa dù rụng nở, vẫn hoàn tiết xuân” như vậy đã lột được hết ý của thiền sư Chân-không, hơn là câu dịch "Hoa nở hoa tàn chỉ là xuân" của thiền sư Thích Thanh-từ.
Thực vậy, ý của thiền sư Chân-không là khi thấy xuân đi, cũng như thấy hoa tàn lúc xuân đi, thì không nên nghĩ rằng xuân đã hết, vì sau khi xuân đi rồi xuân sẽ lại đến, cũng như sau khi hoa tàn rồi hoa sẽ lại nở. Đó chỉ là những biến chuyển tuần hoàn, nghĩa là trạng thái dịch của xuân thôi, chứ xuân thì vĩnh viễn bất biến. Như vậy, từ “vẫn” trong câu dịch của giáo sư Nguyễn-đăng-Thục và của Phạm-tú-Châu dùng đúng hơn, vì từ “vẫn” diễn tả được cái bất biến của xuân. Từ “vẫn” có ý là "cứ như thế", nghĩa là nó ngụ ý chỉ sự không thay đổi, sự bất biến của một trạng thái (cũng như phẩm chất). Hơn nữa, từ “vẫn” nói lên ý niệm khẳng định, đề quyết, chắc chắn. Trái lại từ “chỉ ” mà thiền sư Thích Thanh-từ dùng cho thấy sự không chắc chắn, thiếu khẳng định, vì từ này diễn tả ý "có thế thôi" hay "không có gì khác", nghĩa là tuy nó nói lên một sự thực đơn độc, duy nhất, nhưng không mang ý bất biến, nên không lột được hết ý của thiền sư Chân-không.