Chương 4: Bồ Tát Nguyện

Chủ Nhật, 01 Tháng Năm 201611:41 SA(Xem: 3032)
Chương 4: Bồ Tát Nguyện
THẮNG MAN GIẢNG LUẬN
Thích Tuệ Sỹ

CHƯƠNG 4
BỒ TÁT NGUYỆN


TIẾT 1: HẠNH NGUYỆN CỦA BỒ TÁT

I. Ý NGHĨA BỒ TÁT NGUYỆN

Bồ-đề tâm, Bồ tát hạnh, và Bồ tát nguyện, đó là ba yếu tố quyết định đưa đến Phật thừa. Trên kia, với chương thứ nhất, tán thán những phẩm tính siêu việt của Như Lai, Thắng Man Phu nhân đã phát khởi tâm nguyện Bồ-đề, mong cầu quả vị giác ngộ vì lợi ích không chỉ riêng mình mà vì lợi ích của tất cả. Rồi ở chương hai, Phu nhân lại đề ra những hành vi đạo đức thực tiển của Bồ tát hạnh bằng mưòi đại thọ. Nhưng, như luận Thập trụ tì-bà-sa nói: «Phát nguyện cầu Phật đạo nặng nhọc hơn cả việc nâng đỡ ba ngàn đại thiên thế giới». Chỉ có thể thành tựu mục tiêu tối thượng ấy bằng ý chí kim cang bất hoại. Ý chí ấy được gọi là «nguyện», là thệ nguyện hay quyết tâm. Cho nên, sau khi đã phát Bồ-đề tâm, khởi Bồ tát hạnh, chương này sẽ nói đến thệ nguyện vĩ đại của Bồ tát.

Hoa nghiêm thám huyền ký[1] phân tích có bốn loại nguyện của Bồ tát:

l. Thệ nguyện, ước hẹn thời gian trước khi hành động.

2. Hành nguyện, gồm hai trường hợp: (a) cùng phát khởi một lần với hành động, (b) đối sự mà phát nguyện với chủ đích giữ vững tâm chí không để gián đoạn và tán loạn.

3. Nguyện sau hành tức bằng hành động mà hướng ước nguyện của mình đến Bồ-đề đạo.

4. Tự thể vô ngại nguyện, tức đại nguyện cứu cánh đồng với biển pháp tính, thong dong mà thành tựu tất cả sự nghiệp.

Bốn loại nguyện này trải suốt con đường hành đạo từ khi mới phát tâm cho đến khi đạt địa vị không thối chuyển.

Nhóm nguyện thứ nhất, như trường hợp Thiện Tài đồng tử sau khi được Văn-thù giảng dạy, phát tâm hướng thượng, mong cầu học hỏi đầy đủ Phật pháp và giác ngộ rốt ráo.[2]

Nhóm hạnh nguyện thứ hai, là những lời nguyện trong lúc hành động như được nói trong phẩm «Tịnh hạnh» của kinh Hoa nghiêm.[3] Theo đó, mỗi hành vi của mình đều mang ước nguyện tưởng đến sự an lạc của chúng sinh. Thí dụ, khi trải giường chiếu thì gnuyện như vầy: «Khi trải giường chiếu, nguyện cho chúng sinh trải bằng thiện pháp, thấy chân thật tướng». Hoặc khi cất bước ra đường thì nguyện rằng: «Cất bước ra đường, nguyện cho chúng sinh bước lên lối Phật, vào vô y xứ». Hoặc khi ngủ nghỉ thì nguyện rằng: «Vào lúc ngủ nghỉ, nguyện cho chúng sinh thân được an ổn, tâm không loạn động». Những lời nguyện như vậy, có mục đích làm cho tâm niệm của mình không hề rời bỏ chúng sinh trong mọi hành vi cử chỉ của mình, và do đó không hề xao lãng chí nguyện Đại thừa của mình.

Nhóm nguyện thứ ba, cũng nói là sự hồi hướng.

Nhóm thứ tư là hạnh nguyện hay quyết tâm hành động của Phổ Hiền.[4]

Ba đại nguyện của Thắng Man Phu nhân như là kết quả của các hành động bởi mười đại thọ nên có thể liệt vào nhóm thứ ba. Tuy nhiên, bản chất và nội dung của các đại nguyện này cũng bao trùm cả bốn nhóm nguyện vừa kể. Chúng ta sẽ nói thêm ở đoạn sau. Ở đây, chúng ta đưa ra một số nguyện thuộc nhóm thứ tư, và một số nguyện có tính chất tổng quát.

Nhóm nguyện thứ tư trong bảng liệt kê của Hoa nghiêm kinh thám huyền ký trên đây thực sự là nguyện lực bất khả tư nghị của Bồ tát trên hàng pháp thân đại sĩ,[5]nghĩa là đã trải qua một thời gian dài tu tập, thấy rõ bản chất của thế gian, thấy biết sâu xa Phật pháp. Đặc sắc của nguyện lực này như được diễn tả trong kinh Hoa nghiêm, phẩm «Nhập pháp giới», qua lời Bồ tát Di-lặc tán dương Thiện Tài đồng tử. Sau khi trải qua 5l nơi học hỏi đạo lý, trên quá trình tu chứng của Đại thừa, bấy giờ Thiện Tài đồng tử đã hoàn toàn an trụ vững chắc trong chí nguyện Đại thừa. Ước nguyện và hành vi, cả hai không còn cách biệt. Cho nên, lời tán dương của Bồ tát Di- lặc nói: «Với những kẻ trôi nổi trong bốn dòng nước xoáy,[6] con người chân thật này muốn làm con thuyền đại pháp đưa chúng sinh vượt qua đại dương. Với những kẻ chìm ngập trong bùn lầy của kiến chấp, người này muốn làm chiếc cầu đại pháp. Với những kẻ tối tăm ngu dốt, người này là ngọn đèn đại trí. Với những người lạc lối trong sa mạc sinh tử, người muốn làm kẻ chỉ bày lối đi của bậc Thánh…»[7] Thiện Tài sau khi nghe những lời tán thán ấy, hoan hỷ phấn khởi, chấp tay cung kính hướng về Bồ tát Di-lặc, bất giác nhìn lại hai bàn tay của mình thấy đầy những hoa thơm đang nở rộ.

II. MƯỜI NGUYỆN SƠ PHÁT TÂM

Nhóm nguyện được nói có tính chất tổng quát, đặc trưng chí hướng của Bồ tát đạo, là mười nguyện được nhắc đến trong Du già.[8] Xét về bản chất thì thấy chúng có tính chất tổng quát, nghĩa là bao hàm từ những vị mới phát tâm mong cầu Phật đạo cho đến những hàng đại Bồ tát. Nhưng trong quá trình tiến bộ của Bồ tát, chúng được liệt kê trong bảng những đức tính của Bồ tát sắp sửa bước vào Sơ địa, tức bắt đầu dự vào hàng Thánh giả của Đại thừa, vượt lên các hạng phàm phu.

Nói là được nhắc đến trong Du già nhưng xuất xứ chính xác phải nói từ phẩm «Thập địa», kinh Hoa nghiêm. Dưới đây sẽ lược dẫn theo trình bày của kinh Hoa nghiêm.[9] Mười nguyện này như sau:

l. Nguyện cúng dường Phật:[10] Bồ tát quyết định như vầy: «Bằng tất cả mọi vật dụng cúng dường, cung kính cúng dường hết thảy chư Phật». Giải thích của Thập trụ[11] nói: «Kể từ khi vừa mới phát tâm cho đến lúc thành tựu đại Bồ-đề, trong khoảng trung gian đó… cúng dường, tôn trọng… (Nhưng) Bằng pháp Tiều thùa mà giáo hóa chúng sinh, gọi là cung dưỡng (tức là cho). Bằng pháp Bích-chi-Phật mà giáo hóa chúng sinh, gọi là phụng cấp (tức là cấp dưỡng). Bằng pháp Đại thừa mà giáo hóa chúng sinh, gọi là cung kính». Nói tóm lại, cúng dường chư Phật bằng sự giáo hóa được đề cao nhất.

2. Nguyện thọ trì Chánh pháp: «Nguyện tiếp thọ Pháp luân của hết thảy chư Phật; nguyện nhiếp thọ Bồ-đề của hết thảy chư Phật; nguyện thủ hộ giáo của hết thảy chư Phật; nguyện duy trì pháp của hết thảy chư Phật». Nhiếp thọ, tức thệ nguyện học hỏi để thấu suốt. Hộ trì, là sẵn sàng xả bỏ thân mạng cho sự tồn tại củaChính pháp vì lợi ích cho tất cả.

3. Nguyện nhiếp pháp thượng thủ: «Nguyện trong tất cả thế gian, nơi nào có Phật xuất hiện, từ Đâu-suất thác sinh, nhập thai, trụ thai, sơ sinh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, thị hiện Niết-bàn, tôi thảy đều đi đến nơi đó, thân cận cúng dường, làm bậc thượng thủ trong đại chúng, thọ hànhChính pháp, vận chuyển khắp trong mọi thời, khắp trong mọi xứ». Nguyện này có hai phần: nhiếp thọ Phật pháp và làm thượng thủ trong đại chúng, nghĩa là ước nguyện có thể thay thế Phật mà vận chuyển Pháp luân. Nói cách khác, đây là thệ nguyện đảm trách công việc tuyên giáo cho bất cứ vị Phật nào xuất hiện trong thế gian.

4. Tăng trưởng chúng sinh tâm hành: «Nguyện rằng, tất cả Bồ tát hạnh, quảng đại, vô lượng, không hoại, không tạp, nhiếp các ba-la-mật, tịnh trị các địa, tổng tướng, biệt tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, tát cả Bồ tát hạnh ấy, tôi đều giảng thuyết như thật, giáo hóa tất cả khiến cho tiếp thọ và hành trì, tâm được tăng trưởng». Trong nguyện này, mong bằng các phương tiện, đúng với chân tính của sự vật, khuyến khích và làm tăng trưởng tâm hành của chúng sinh, nghĩa là nâng cao trình độ tâm linh, để hướng dẫn bước vào Phật đạo. Nguyện này cũng được gọi la «tri chúng sinh tâm», ước nguyện biết rõ căn tính của mỗi chúng sinh để thích hợp trong sự giáo hóa và tăng trưởng. Nhiếp luận thích gọi là «tu hành nguyện».

5. Giáo hóa chúng sinh: «Nguyện rằng, tất cả chúng sinh giới, sắc hay vô sắc, tưởng hay vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng, loài sinh bằng trứng, bằng thai, bằng ẩm thấp, bằng biến hoá, hệ thuộc ba cõi, ở trong sáu thú, tất cả sinh xứ, được thâu nhiếp trong danh và sắc, các chủng loại như vậy, vân vân, tôi đều giáo hoá đưa vào Phật pháp, để vĩnh viễn đoạn trừ tất cả cõi thú của thế gian cho được an trụ trong Nhất thiết trí đạo».

Nguyện thứ nhất, tu tập để phát triển tín tâm bằng sự cúng dường gần gũi, nguyện thứ hai, học hỏi vô biên Phật pháp. Hai nguyện này hướng đến sự thành tựu bản thân. Nguyện thứ ba, làm thượng thủ trong giáo hội, nguyện thứ tư, hỗ trợ phát triển, nâng cao đạo tâm cho những người đồng học hay đã có tín tâm. Nguyện thứ năm này là đưa những người chưa có tín tâm vào con đường Nhất thiết trí. Do đó, nguyện này cũng được gọi là «thành tựu chúng sinh».

6. Nguyện biết rõ thế giới: «Nguyện rằng, hết thảy thế giới, quảng đại, vô lượng, thô hay tế, loạn trụ, hay đảo trụ, haychính trụ, hoặc đến, hoặc đi, sai biệt như màng lưới đế thanh minh châu, mười phương vô lượng, đủ loại bất đồng, tôi được thấy rõ bằng trí, hiện tiền thấy biết». Nguyện này cũng được gọi là «thừa sự», thừa hành Phật sự hay phụng sự Phật pháp. Bởi vì, ước nguyện thấy biết, hiểu rõ thế gian, thấu suốt bản chất chân thật của chúng, không bị trở ngại trong bất cứ hành động nào của mình, như vậy mà có thể phụng sự được toàn vẹn.

7. Nguyện tịnh Phật quốc độ: «Nguyện rằng, hết thảy quốc độ, nhập vào một quốc độ, một quốc độ nhập vào hết thảy quốc độ, vô lượng cõi Phật, tất cả tôi đều làm cho thanh tịnh, làm rực sáng bằng các vật dụng để trang nghiêm, xa lìa hết thảy ô nhiễm, thành tựu đạo thanh tịnh, vô lượng chúng sinh có trí tuệ sung mãn ở trong đó, tất cả đều vào cảnh giới bao la của chư Phật, tùy theo tâm chúng sinh mà thị hiện, khiến cho hết thảy đều hoan hỉ». Đây là ước nguyện làm cho tất cả mọi thế gian đều trở thành tịnh độ, không có những khốn khổ vật chất, không có những hệ lụy phiền não.

8. Nguyện đồng tâm hành: «Nguyện rằng, cùng với tất cả Bồ tát đồng một chí hướng và hành động, không thù oán, không ganh tị, tích tụ các thiện căn, với tất cả Bồ tát, cùng một duyên bình đẳng, thường cùng hội họp không rời bỏ nhau, tùy ý có thể hóa hiện đủ các Phật thân, tùy tâm có thể biết cảnh giới uy lực, trí của hết thảy Như Lai, được bất thối như ý thần thông, du hành tất cả thế gian, hiện hình trong tất cả chúng hội, vào khắp tất cả chỗ thọ sinh, thành tựu bất tư nghị Đại thừa, tu Bồ tát hạnh». Đây là ước nguyện luôn luôn gần gũi thiện tri thức. Gần gũi thiện tri thức là nhân tố chính yếu của Bồ tát đạo. Vì sự giác ngộ được thành tựu ngay giữa thế giới khốn nạn của chúng sinh, cho nên Bồ tát ước mong với ý chí sắt đá có thể đến bất cứ nơi nào để học hỏi, để giáo hóa.

9. Nguyện ba nghiệp không cùng tận: «Nguyện nương theo bánh xe không thối lui, thực hành Bồ tát hạnh, của hành vi của thân, ngữ và ý đều không là những hành vi suông. Nếu chúng sinh nào chợt gặp tôi, mong cho quyết định Phật pháp, bất chợt nghe tiếng nói của tôi, liền được trí tuệ như thật, tịnh tín vừa sinh, tức thì vĩnh viễn đoạn trừ phiền não, được thân hình như gốc cây đại dược vương, được thân hình như như ý bảo, tu hành tất cả Bồ tát hạnh». Đây là thệ nguyện nỗ lực thực hành cho kỳ được tất cả Bồ tát hạnh trong bất cứ trường hợp nào.

10. Nguyện thành Bồ-đề: «Nguyện, ở trong tất cả thế gian mà thành tựu giác ngộ tối thượng, không rời khỏi khoảng bằng đầu ngọn lông xíu mà thị hiện khắp tất cả mọi nơi, dù nhỏ bằng đầu lông xíu, sơ sinh, xuất gia, bước đến đạo tràng, thànhchính giác, chuyển Pháp luân, nhập Niết-bàn, chứng đắc cảnh giới Phật, năng lực đại trí tuệ, ở trong mỗi một niệm, tùy tâm của tất cả chúng sinh mà thị hiện thành Phật, khiến cho được tịch diệt, bằng một niệmchính giác mà biết tất cả pháp giới tức Niết-bàn tướng; bằng một âm thanh mà thuyết pháp khiến hết thảy chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, thị hiện nhập đại Niết-bàn mà không đoạn tuyệt Bồ tát hạnh; chỉ bày mặt đất đại trí tuệ; đặt vững tất cả pháp; bằng pháp trí thông, thần túc thông, huyễn thông, tự tại biến hóa sung mãn tất cả pháp giới».[12]

Đây là ước nguyện tối thượng và cùng đích của Bồ tát. Đến đây, chúng ta sẽ so sánh mười đại nguyện trên với ba đại nguyện của Thắng Man Phu nhân

TIẾT 2: BA ĐẠI NGUYỆN

I. YẾU TÍNH BA ĐẠI NGUYỆN

Chương này cũng có tên, theo chữ Hán, là «Nhất thiết nguyện nhiếp đại nguyện». Về cú pháp, như giải thích của Tuệ Viễn,[13] đây là đặt câu theo cách «ngoại quốc», tức theo văn pháp tiếng Phạn. Nếu đặt theo Hán văn phải nói như vầy: «Đại nguyện nhiếp nhất thiết nguyện» Nghĩa là, cái đại nguyện thâu tóm, bao quát tất cả nguyện. Nguyện được chia làm ba, nhưng căn bản chỉ có một. Căn bản đó là Chánh pháp, nói rõ hơn, đó là chánh lý của Đại thừa. Chánh lý ấy được Phu nhân trình bày một cách hệ thống suốt từ chương v đến chương xiii.

Nguyện được chia làm ba phương diện, theo quan điểm của Bảo khốt[14] của Cát Tạng, ấy là tương đương với ba tụ tịnh giới của Bồ tát. Nghĩa là nguyện tương ứng với hành. Nguyện thứ nhất nói: đời đời thọ sinh đều được Chánh pháp trí, đó là nguyện tự hành, tương ứng với nhiếp luật nghi giới. Nguyện thứ hai nói: sau khi đã thành tựu Chánh pháp trí, bằng tâm không mệt mõi, sẽ giảng thuyết cho tất cả chúng sinh, đây là nguyện ngoại hóa, tương ứng với nhiếp chúng sinh giới. Nguyện thứ ba nói: đối với sự nhiếp thọ Chánh pháp, sẽ xả bỏ thân mạng và tài sản để hộ trì Chánh pháp, đây là nguyện hộ pháp, thành tựu nhiếp thiện pháp giới.

II. NỘI DUNG BA ĐẠI NGUYỆN

l. Nguyện Chánh pháp trí: được định nghĩa theo Nghĩa ký[15] của Tuệ Viễn, đó là chứng như thật tuệ. Tức trí tuệ thấy rõ bản tính của các pháp. Định nghĩa củaNghĩa sớ[16] của Thánh Đức, đó là thường trụ trí, tức trí tuệ bản hữu không bị chi phối bởi mọi sinh thành hay hoại diệt của hiện tượng giới. Nói một cách tổng quát, nguyện Chánh pháp trí ở đây là ước nguyện học hỏi tất cả Phật pháp. Tính cách hoằng đại vô biên của Phật pháp như được Hải Vân tì kheo[17] mô tả cho Thiện Tài đồng tử. Chỉ trong một ý nghĩa, giữa vô biên ý nghĩa của một pháp môn, trong số vô lượng pháp môn, chỉ một câu ấy mà dùng số lượng mực nhiều bằng biển cả và với ngọn bút bằng ngọn núi chúa Tu-di, viết cho đến mực khô bút cùn mà vẫn không thể diễn tả thấu suốt hết. Bởi vì chúng sinh giới vốn vô tận, thế gian tính vô tận, hư không giới vô tận, pháp giới vô tận, niết-bàn giới vô tận, Phật xuất hiện giới vô tận, Như Lai trí giới tâm sở duyên giới vô tận, cảnh giới sở nhập của Phật trí vô tận, giới tính vận chuyển thế gian, vận chuyển pháp, vận chuyển trí vô tận. Với mười tính vô tận ấy,[18] Phật pháp cũng vô tận và do đó thệ nguyện cũng vô tận.

Đối chiếu với mười nguyện đã nói ở trên, nguyện tự hành này của Thắng Man Phu nhân bao hàm các nguyện như sau: (l) nguyện cúng dường, (6) nguyện biết thế giới, (9) nguyện ba nghiệp không cùng tận. Bởi vì trên phương diện tự hành, sự thân cận cung kính cúng dường Phật là để xác lập vững chắc tín tâm đối với mục đích tối thượng và quyết định là phải thành tựu. Đó là tu tập bằng tín. Và lại nữa, bởi vì thế gian tính cũng chính là giới tính của Phật pháp, cho nên ước nguyện hiểu biết thấu triệt tất cả thế giới tính cũng chính là ước nguyện vào sâu trong biển Phật pháp. Đó là tu tập bằng trí. Mọi hành vi cử chỉ, trong mọi môi trường sinh hoạt, đều hướng tới một mục đích tối thượng duy nhất, đó là tu tập bằng hành động thực tiễn. Như vậy, tự hành đạt đến thành tựu trọn vẹn ba phương diện của một nhân cách: tình cảm, trí tuệ và ý chí. Tất cà sự thành tựu ấy cùng hướng đến một cứu cánh cao tột: thành Bồ-đề trong nguyện thứ mười.

2. Nguyện thuyết trí: nếu Chánh pháp trí được hiểu chính xác là như thật trí, thì nguyện thứ hai này hướng đến thành tựu phương tiện trí. Nó bao gồm các nguyện sau đây trong bảng kê mười nguyện: (3) nhiếp pháp thượng thủ, (4) tăng trưởng chúng sinh tâm hành, (5) giáo hóa chúng sinh, (6) đồng tâm hành.

3. Nguyện hộ pháp: trong nguyện văn nói: «Đối với nhiếp thọ Chánh pháp, con sẽ xả bỏ thân mạng, tài sản để hộ trì Chánh pháp». Bảo khốt[19] của Cát Tạng đưa ra giải thích cổ của các giảng sư đi trước và không đồng ý giải thích ấy. Theo giải thích ấy, không phải xả bỏ thân, mạng, tài sản để bố thí, mà là chứng thật trí, lìa hư tướng, đạt được thanh tịnh Pháp thân, xả bỏ thân, mạng, tài sản thuộc vô thường giới. Giải thích này được nói là căn cứ vào kinh Niết bàn, theo đó, phá hoại tất cả kết sử phiền não và các ma tính, sau đó mới xả bỏ thân mạng cho Niết-bàn. Nghĩa ký[20] của Tuệ Viễn theo lập trường giải thích này. Bảo khốt cho rằng căn cứ trên chính văn bản đây thực sự là nguyện hộ pháp; xả bỏ thân, mạng, tài sản để hoằng thông chính lý Đại thừa. Nguyện này gồm hai nguyện còn lại của mười nguyện: (2) thọ trì Chánh pháp, và (7) tịnh Phật quốc độ. Như đã thấy ở trên, thọ trì Chánh pháp tức là hộ trì Chánh pháp. Nhưng tịnh Phật quốc độ ở đây mà được liệt vào nguyện hộ pháp, đó là muốn nêu rõ tương quan giữa sự tồn tại và hiện hành của Chánh pháp với sự an lạc và lợi ích của thế gian. Hộ trì Chánh pháp cũng chính là hộ trì thế gian.


------------------------

[2] Hoa nghiêm (Phật), «phẩm 34. Nhập pháp giới, Đại 9, tr. 676ff. Hoa nghiêm(Thật), «39 phẩm. Nhập pháp giới», Đại 10, tr. 319ff.

[3] Hoa nghiêm (Phật), «7 phẩm. Tinh hạnh», Đại 9, tr. 430ff. Hoa nghiêm (Thật), «11 phẩm. Tịnh hạnh», Đại 10, tr. 1ff.

[4] Hoa nghiêm (Phật), «31 phẩm. Phổ Hiền Bồ tát hạnh», Đại 9, tr. 607ff. Hoa nghiêm (Thật), «36 phẩm. Phổ Hiền hạnh», Đại 19, tr. 257ff.

[5] Thông thường chỉ các Bồ tát địa thứ tám trở lên.

[6] Bốn bộc lưu (Skt. catvāra oghāḥ): Dục bộc lưu (kāmaugha), dòng xoáy của dục vọng, hữu bộc lưu (bhavaugha), dòng xoáy của tồn tại, kiến bộc lưu (dṛṣṭyogha), dòng xoáy của kiến chấp, vô minh bộc lưu (avidyaugha), dòng xoáy vô minh.

[7] Gaṇḍa, tr. 3955: eṣa hi kulaputrāḥ satpuruṣaḥ sattvānāṃ catur oghottaraṇtāyai mahādānaṃ mahādharmanāvaṃ samudānetu-kāmo, dṛṣṭipaṅkanimagnānāṃ mahādharmasetuṃ sthāpayitu- kāmo, mohāndhakāraprāptānāṃ jñānālokaṃ kartukāmaḥ saṃsāra kāntārapranaṣṭānām ārya­mār­gaṃ saṃdarśayitukāmaḥ. Cf.Hoanghiêm (Thật), Đại 10, tr. 429a 8.

[8] Đại 30, tr. 543b17.

[9] Hoa nghiêm (Phật), Đại 9, tr. 545b.ff. Hoa nghiêm (Thật), Đại 10, tr. 181c.ff. Cf.Daśa, tr. 9ff.

[10] Phân tích ý nghĩa tên gọi các nguyện, xem Pháp Tạng, Thám huyền, quyển 11, Đại 35, tr. 306ff. Tham chiếu, theo Nhiếp luận thích (Chân), quyển 10, Đại 31, tr. 225c8.

[11] Đại 26, tr. 30b21.

[12] Cf. Daśa, tr. 9.30ff: 1. mahāpūjopasthānāya… 2.budhotpādasaddharmaparigāhāya, 3. yāvanmahāparinirvāṇopasaṃkramaṇāya… 4. cittotpādābhinirhārāya…, 5. sarva­sattva­dhātu­pari­pāca­nāya… 6.lokadhātuvaimātryavatāraṇāya…, 7. sarvabuddhakṣetrapariśodhanāya…, 8.ahāyānavataraṇāya…, 9. amoghasarvaceṣṭatāyai…, 10. abhisaṃbodhi­mahā­jñānā­bhijñā­bhi­nirhārāya… Về giải thích 10 nguyện này, xem Thập trụ, tr. 30b10ff.

[13] Thắng Man kinh nghĩa kýVạn 30, tr. 752b.

[14] Đại 37, tr. 26a8.

[15] Sđd., Vạn 30, tr. 573b.

[16] Thánh Đức Thái tử, Thắng Man kinh nghĩa sớ, Đại 58, tr. 4c23. Cf. Tuệ Viễn,Thắng Man kinh nghĩa ký, Vạn 30, tr. 573b7.

[17] Hoa nghiêm(Phật), Đại 9, tr. 690ff; Hoa nghiêm (Thật), Đại 10, tr. 335aff; Hoa nghiêm (Bát), Đại 10, tr. 680c. Cf. Gaṇḍa, «5. Sāgaramegha,» tr. 51.ff.

[18] Mười vô tận cú (daśa niṣṭhāpada), hay phạm trù vô hạn, xem Hoa nghiêm(Thật), Đại 10, tr. 182b11; Hoanghiêm (Phật), Đại 9, tr. 546a. Cf. Daśa, tr. 115:daśabhir niṣṭhāpadau (…) yad uta sattvadhātuniṣṭhayā ca lokadhātuniṣṭhayā ca ākāśadhātuniṣṭhayā ca dharmadhātuniṣṭhayā ca nirvāṇadhātuniṣṭhayā ca buddhotpādadhātuniṣṭhayā ca tathāgatajñānadhātuniṣṭhayā ca cittālambanadhātuniṣṭhayā ca buddhaviṣayajñānapraveśadhātuniṣṭhayā ca lokavartanīdharma­vartanījñānavartanī dhātuniṣṭhayā ca.

[19] Đại 37, tr. 26c27.

[20] Sđd., Vạn 30, tr. 573b11.