Bài Tụng 31-35

Thứ Năm, 21 Tháng Tư 201610:57 CH(Xem: 2871)
Bài Tụng 31-35
Bài tụng 31: Chủ thể và đối tượng của nhận thức                 

Thức luôn luôn bao hàm
Chủ thể và đối tượng.
Tự, tha, trong và ngoài
Đều chỉ là ý niệm.

 

Thức luôn luôn bao hàm chủ thể và đối tượng. Nếu không có được cái  thấy về sự thật này thì không đi xa được trong việc tìm hiểu và học hỏi  về Duy Biểu. Thức là nhận thức, và nhận thức luôn luôn là nhận thức về  một cái gì. Không thể nào có nhận thức nếu không có đối tượng nhận thức.  Khi nào có nhận thức là có đối tượng nhận thức, và nếu không có đối  tượng là không có nhận thức.

Khuynh hướng thông thường và phổ quát là tin rằng có một cái biết,  một cái thức nằm sẵn trong người của mình và nó có thể tồn tại độc lập.  Khi cần tới, ta có thể rút nó ra dùng ngay được, giống như khi ta lấy  dụng cụ làm vườn từ kho ra vậy. Ta hay nghĩ rằng khi tiếp xúc với núi  thì thức biết đây là núi, khi tiếp xúc với mây thì nó biết đây là mây.  Sau khi biết là núi, là mây rồi thì ta lại cất thức đi vào chỗ của nó.  Đó là sai lầm căn bản.

Bụt nói rằng khi con mắt chạm hình sắc thì phát sinh ra cái thấy và  cái thấy đó là một tia chớp lóe lên do sự xúc chạm giữa căn và cảnh,  nghĩa là giữa con mắt và hình sắc. Cái thấy đó chỉ tồn tại trong một  sát-na mà thôi. Nhưng vì con mắt tiếp tục xúc chạm với hình sắc cho nên  thức tiếp tục phát sinh trong những sát-na kế tiếp và tạo nên một dòng  nhận thức của cái thấy.

Trong dòng nhận thức của cái thấy đó, chủ thể và đối tượng luôn luôn  đi liền với nhau. Cho nên khi nghĩ rằng có một cái thấy mà không có đối  tượng thấy là sai lầm căn bản; có một cái nghe mà không có đối tượng  nghe là sai lầm căn bản; có chánh niệm mà không có đối tượng chánh niệm  là sai lầm căn bản.

Thức luôn luôn có đối tượng: Cái thấy (nhãn thức), cái nghe (nhĩ  thức) cũng như chánh niệm của chúng ta đều có hạt giống ở trong thức  A-lại-gia. Phải có hạt giống thì nhận thức mới phát sinh được. Con mắt  và hình ảnh là hai điều kiện cần nhưng chưa đủ để tạo ra cái thấy vì  chúng chỉ là những tăng thượng duyên. Cái thấy cần phải có nhân duyên,  nhân duyên đó nằm trong A-lại-gia dưới hình thức một hạt giống.

Chánh niệm là một hạt giống. Hạt giống chánh niệm là khả năng chánh  niệm chứ không phải là một biểu hiện của chánh niệm. Muốn cho chánh niệm  phát sinh thì nó phải có đối tượng. Chánh niệm về hơi thở, chánh niệm  về bông hoa, chánh niệm về người ngồi trước mặt. Chánh niệm bao giờ cũng  là chánh niệm về một cái gì, chánh niệm luôn luôn có đối tượng. Nói  rộng ra, thức (cái thấy, cái nghe, cái hiểu biết, cái suy tư, cái tưởng  tượng) luôn luôn bao gồm chủ thể và đối tượng. Khi nghĩ rằng thức không  có đối tượng, thì rất sai lầm!

Tác dụng và nội dung của thức.

Thức trước hết là khả năng nhận thức, khả năng phân biệt, nhưng thức  cũng có rất nhiều tác dụng. Càng nói đến những tác dụng của thức thì  càng có nhiều thức. Cho nên nói thức có một là không đúng mà nói thức có  tám cũng không đúng mấy. Có thể nói là thức có 9, có 15 hay có 17 cũng  được.

Nội dung của tâm thức (hay thức) là những tâm hành (citta-saṃskāra,  mental formations). Tâm thức là tập hợp của những tâm hành (trạng thái  tâm lý) hay tâm sở trong Duy Biểu Học. Chúng ta đã biết là có tất cả là  51 tâm sở. Tất cả mọi tâm sở đều có chủ thể và đối tượng.

Tâm sở chỉ phát hiện trong một sát-na (kṣaṇa) ngắn ngủi. Nhưng vì  những điều kiện cần và đủ để làm phát hiện tâm sở vẫn tiếp tục và tâm sở  đó được tái sinh trong sát-na kế tiếp. Tâm sở kế tiếp đó đóng vai trò  đẳng vô gián duyên, tức là điều kiện liên tục. Không có tâm sở của  sát-na này thì không có tâm sở của sát-na kế tiếp. Cũng giống như khi  chiếu phim lên màn ảnh, nếu phim bị đứt, một hình ảnh bị gián đoạn thì  ta không thể thấy được những hình ảnh kế tiếp. Một hình ảnh, một tâm sở  khi phát hiện đối với người thường xem ra như là một hiện tượng bất động  nhưng nếu có học, có hiểu Duy Biểu thì ta hiểu là nó không như vậy.

Đốm lửa cây nhang

Nhìn một cây nhang đốt cháy trong đêm ta thấy một đốm lửa hình như  bất động. Nhưng sự thật, mỗi sát-na là một đốm lửa khác, vì nhiên liệu  đốt lên đốm lửa trong sát-na bây giờ không phải là nhiên liệu đốt lên  đốm lửa trong sát-na trước. Vậy thì đốm lửa của sát-na bây giờ và đốm  lửa của sát-na trước không phải là cùng một đốm lửa. Nhưng nói rằng đốm  lửa bây giờ khác đốm lửa của sát-na trước cũng không đúng vì có sự liên  tục giữa đốm lửa của sát-na trước và sát-na bây giờ. Đó là ý nghĩa của  câu "không phải một, cũng không phải khác" (not the same, not  different).

Xa thêm một bước nữa, trong bóng tối nếu ta cầm que nhang, quay theo  một vòng tròn thì ta sẽ thấy một vòng lửa sáng. Vòng lửa đó chỉ là một  ảo giác vì kỳ thật chỉ có những chấm sáng rời rạc xuất hiện một cách  liên tục, kết vào nhau mà thành vòng lửa. Vòng lửa ấy là một đới chất  cảnh.

Cũng vậy, nhìn vào cuộc đời chúng ta thấy có thường, có ngã. Thường  và ngã chỉ là những ảo tưởng. Nhìn sâu chúng ta sẽ thấy tất cả mọi hiện  tượng vật chất cũng như các hiện tượng tâm lý đều chuyển biến từng giây,  từng phút. Chúng ta sẽ thấy được bản chất của chúng và đạt đến tuệ giác  vô thường, vô ngã. Heraclitus đã từng nói: "Không thể nào tắm hai lần  trong một dòng sông." Câu nói đó chứng tỏ tuệ giác vô thường của ông,  mặc dầu ông không dùng đến danh từ ấy. Tuệ giác vô thường, vô ngã hướng  dẫn chúng ta để cho chúng ta không bị kẹt vào ảo tưởng. Chúng ta sống  trong ảo tưởng rất nhiều.

Thức luôn luôn bao hàm chủ thể và đối tượng. Tự, tha, trong và ngoài đều chỉ là ý niệm.

Đến đây chúng ta đi vào giáo lý của Hoa Nghiêm và của Tam Luận. Tự  (bản thân), tha (không phải bản thân), trong, ngoài đều là những ý niệm  do chúng ta tạo ra, qua nhận thức rằng các sự vật tồn tại ngoài nhau.  Bông hồng tồn tại ngoài đám mây. Bông hồng không thể nào là đám mây.  Chúng ta cho rằng có một ranh giới chia cắt giữa bông hồng và đám mây.  Chúng ta đã dùng lưỡi gươm khái niệm để chia cắt. Đó gọi là phân biệt,  là biến kế. Đó là tạo tác của tâm thức.

Nếu dùng chìa khóa vô thường, vô ngã mà mở cánh cửa thực tại thì sẽ  thấy rằng đám mây không ở ngoài bông hồng mà ở trong bông hồng và bông  hồng không ở ngoài đám mây mà ở trong đám mây. Nhờ quán chiếu chúng ta  thấy rằng nếu không có mây, không có mưa thì không có nước, không có  nước thì không thể nào có bông hồng. Cho nên, nhìn vào bông hồng ta thấy  nước ở trong bông hồng, thấy mây ở trong bông hồng. Khi bông hồng tàn  thì hơi nước trở về đám mây. Nhìn vào bông hồng thì thấy đám mây. Và ý  niệm về trong và ngoài của chúng ta tan biến.

Duy Biểu và giáo lý Hoa Nghiêm

Giáo lý của bài tụng 31 này mang màu sắc Hoa Nghiêm: Một trong tất cả, tất cả trong một.  Theo David Bohm, một nhà vật lý học hiện đại, khi nhìn các sự vật trong  thế giới, chúng ta thấy mọi sự, mọi vật tồn tại ngoài nhau; nhưng nhìn  kỹ thì chúng ta có thể đi vào một thế giới mà trong đó tất cả mọi cái  nằm trong một cái.

David Bohm (1917-1992) gọi thế giới mà trong đó sự vật tồn tại riêng rẽ là The explicate order. Thế giới mà "cái một" chứa đựng tất cả những cái khác, David Bohm gọi là The implicate order.  Đây là ngôn ngữ Hoa Nghiêm. Các nhà khoa học vật lý lượng tử khi đi sâu  vào thế giới của những chất điểm (particles) đã buông bỏ được rất nhiều  những ý niệm trong-ngoài; tự-tha. Chính các nhà bác học này đã nói:  "Một nguyên tử được làm bằng những nguyên tử khác, một điện tử được làm  bằng tất cả điện tử khác".

Chúng ta học Bụt, chúng ta thấy rất rõ là trong ta có chứa đựng tất cả vạn hữu vũ trụ: trong tôi có anh, trong anh có tôi. "Cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không" Cho nên giáo lý duyên khởi mà phát triển tới cực độ thì thành ra giáo lý trùng trùng duyên khởi: một là tất cả, tất cả là một.

"Tôi biết em còn đó vì tôi còn đây". Đó là một câu thơ của tác giả  trong bài thơ Vòng Tay Nhận Thức. Bài thơ này biểu hiện tuệ giác về Duy  Biểu.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh đời Lý (1072-1117) nói rằng:

"Tác hữu trần sa hữu Vi không nhất thiết không".

Nghĩa là "nếu có thì một hạt bụi cũng có mà nếu không thì tất cả đều không."

Thiền sư Khánh Hỷ (1067-1142) cũng đời Lý có nói:

"Càn khôn tận thị mao đầu thượng. Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung"

(Trời đất có thể thu gọn trên đầu một sợi lông, Mặt trời, mặt trăng có thể nằm gọn trong một hạt cải).

Nhà thơ thiền sư này đã dùng hình ảnh để nói về thế giới mà David Bohm gọi là The Implicate order. Fritiof Capra (tác giả cuốn The Tao of Physics) cũng có nói rằng: "một điện tử được làm bằng tất cả các điện tử".

Lưỡi gươm khái niệm đã chia chẻ cái này là tự, cái kia là tha, cái  này là ta, cái kia là người. Tự, tha, trong và ngoài đều chỉ là ý niệm.  Khái niệm ngoài chỉ hiện hữu khi ta có khái niệm trong. Trong là trong  cái gì? Nói rằng thức chỉ có bên trong cơ thể ta là sai. Nói thức hiện  hữu bên ngoài ta cũng không đúng.

Trong kinh Śūraṃgama Samādhi (Lăng Nghiêm Tam Muội), Bụt chứng minh  rằng thức không ở trong, không ở ngoài, cũng không ở giữa. The Three  Sastras (Kinh Tam Luận) xét các ý niệm sinh-diệt, trong-ngoài,  một-nhiều, tới-đi, thường-vô thường để giúp Phật tử thay đổi các ý niệm  đó. Kinh Kim Cương đưa ra các ý niệm về Ngã, Nhân, Chúng sinh và Thọ giả  để chúng ta phải vượt qua được các ý niệm đó. Duy Biểu Học liên hệ tới  tất cả các giáo lý Hoa Nghiêm, Tam Luận, Kim Cương.

Bài tụng 31 này cũng có chạm tới giáo lý Tam Luận, tại vì trong Tam  Luận chúng ta quán chiếu những ý niệm về sinh về diệt, về một về nhiều,  về thường về đoạn, về tới về đi để chúng ta vượt thoát những ý niệm đó.

Các giáo lý trên giúp chúng ta xả bỏ được các ý niệm và đó là một  phần quan trọng trong việc học Duy Biểu. Phải quán chiếu và thực tập để  có thể vượt ra khỏi những ý niệm tự, tha, trong và ngoài mới có thể hiểu  được Duy Biểu.

Chúng ta phải vượt thoát được các ý niệm về trên-dưới, trong-ngoài,  một-nhiều, sống-chết v.v.., để hiểu rằng các ý niệm đó chỉ là tạo phẩm  của trí phân biệt, của các ý niệm trong tâm ta mà ra. Chúng ta đã nhận  lãnh các ý niệm đó từ nhiều thế hệ, nhất là ý niệm mọi sự đều trường cửu  bất biến, và ý niệm cho rằng các nhận thức của mình đều đúng với thực  tại. Khi xả bỏ được hai ý niệm sai lầm trên, chúng ta đến gần được bản  chất của thực tại.

Bài tụng 32:  Các thành phần trong nhận thức                

Thức gồm có ba phần
Kiến, tướng và tự thể.
Chủng tử và tâm hành
Tất cả đều như thế.

 

Bài kệ này giống như một con rắn, nếu bạn không cẩn thận, bạn có thể  bị nó cắn. Xin các bạn đừng bị cột vào ý niệm thức gồm có ba phần riêng  biệt. Các thầy tổ tạm chia ra như vậy để chúng ta có thể hiểu về Duy  Biểu mà thôi. Trong mười vị luận sư có vị chủ trương thức gồm ba phần,  có vị chủ trương thức gồm bốn phần. Ba cũng đúng mà bốn cũng đúng. Khi  có một chút tuệ giác thì ba cũng được, bốn cũng được.

Trong ví dụ: "Thầy Nhất Hạnh là một hay là nhiều?" Nói một cũng được  mà nói nhiều cũng được. Ở trong Thầy Nhất Hạnh có nhà đạo sĩ, nhà nghệ  sĩ, nhà chiến sĩ. Trong Thầy còn có những "nhà" khác nữa. Cái "nhà" mà  ưa làm vườn thì gọi là... nhà vườn sĩ!  Nói một cũng đúng, nói hai cũng  đúng, nói ba hay bốn cũng đúng. Thấy được điều đó thì chúng ta tiết kiệm  được nhiều thì giờ tranh cãi, hí luận (hí luận là nói lý luận để chơi).

Thức gồm có ba phần: kiến, tướng và tự thể.

Phân biệt ra như vậy để có một ý niệm rồi phải vượt qua cái ý niệm  đó. Đồng tiền Franc của Pháp gồm có ba phần: mặt sấp, mặt ngửa và chất  kim khí làm ra đồng Franc. Khi chạm vào một phần là chạm vào cả ba phần.  Thức cũng như vậy. Thức có phần chủ thể, phần đối tượng, cả hai phần đó  nương trên bản chất của thức là phần tự thể.

Ngày xưa khi tác giả học Duy Thức, các giảng sư vẽ ra một con sên.  Hai cái râu của con sên chỉ tướng phần và kiến phần. Thân mình con sên  là tự thể phần. Khi đụng vào hai cái râu thì chúng thụt vào không thấy  nữa. Chúng trở về tự thể phần (thân mình con sên). Chúng không biểu hiện  nhưng vẫn còn đó.

Cũng vậy, thức khi biểu hiện thì nói là có. Nhưng khi thức không biểu  hiện mà nói là không thì không đúng, vì thức chỉ trở về tự thể phần.  Hơn nữa, khi không thấy chủ thể của thức hay đối tượng của thức mà nói  là thức không có cũng không được. Thức chỉ ở trong trạng thái không biểu  hiện gọi là vô biểu. Khi thức phát hiện thì gọi là biểu. Tóm lại, thức  hoặc biểu, hoặc vô biểu, nói một cách khác "chỉ có biểu" (Duy Biểu).

Chủng tử và tâm hành, tất cả đều như thế.

Những hạt giống trong A-lại-gia thức và những tâm sở phát hiện trong  tâm thức cũng đều như thế, nghĩa là đều có ba phần. Chúng ta thấy ở đây  Duy Biểu đến gần với giáo lý Hoa Nghiêm vì nếu cái vô cùng nhỏ chứa cái  vô cùng lớn thì cái vô cùng nhỏ phải chứa đủ các tính chất của cái vô  cùng lớn. Nếu nhìn sâu bằng con mắt trí tuệ chúng ta có thể thấy đầy đủ  tư liệu của vũ trụ trong một hạt sỏi hay một sợi tóc.

Đông phương ngày xưa có câu: "Nhân thân tiểu thiên địa" nghĩa là thân  thể nhỏ bé của chúng ta là trời đất gom nhỏ lại. Cũng giống như một hòn  non bộ trong đó có núi, sông, trời, nước, có đủ thứ.  Đi xa trong ý  niệm này thì mỗi hạt bụi, mỗi chiếc lá, mỗi làn hơi đều chứa đầy đủ tất  cả dữ kiện về vũ trụ. Chúng ta chỉ cần khám phá một hạt bụi là chúng ta  khám phá toàn thể vũ trụ. Cũng như một giọt nước biển, nếu chúng ta hiểu  được một giọt nước biển thì chúng ta hiểu cả đại dương. Vì vậy khi quán  chiếu, không cần phải quán chiếu nhiều. Quán chiếu về cái một chúng ta  sẽ hiểu được cái tất cả.

Cũng vậy, mỗi tâm hành đều có đủ hết. Trong tâm hành giận ta tìm ra  được yếu tố làm ra cái giận. Nó chứa đựng tất cả. Chúng ta đã vào được  thế giới Hoa Nghiêm, đã vào thế giới của "một là tất cả" (the implicate  order), cho nên chúng ta thấy được rằng trong tâm hành giận có mặt của  Phật tánh, của khả năng giác ngộ, của hạt giống chuyển hóa. Nếu không  thì làm sao chúng ta chuyển hóa được cái giận thành ra cái không giận?

Giống như trong đống rác có chứa sẵn hoa thơm. Người làm vườn khôn  khéo thấy được điều đó cho nên giữ đống rác lại, làm thành phân xanh và  với sự khéo léo, chỉ trong vòng mấy tháng, biến đống rác thành vườn hoa  đẹp, rổ rau cải xanh tươi.

Cũng vậy, những tâm sở phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, phóng  dật, hôn trầm, thất niệm) nếu biết chuyển hóa thì sẽ trở thành an lạc,  giải thoát, hạnh phúc. Cái một chứa đựng cái tất cả là ở chỗ  đó. Càng nhìn sâu thì càng thấy rõ. Không có gì cần phải đẩy ra khỏi  hiện hữu. Không thể đẩy bất cứ cái gì ra khỏi hiện hữu. Đẩy một cái tức  là đẩy tất cả mọi cái.

Mùa đông mà đi vào nhà bếp thì cảm thấy ấm áp dễ chịu. Nhưng cảm giác  ấm áp dễ chịu ấy là do cảm giác lạnh run khi ở bên ngoài tạo thành. Nếu  ngoài trời không tuyết lạnh thì không có cảm giác dễ chịu như vậy. Cảm  giác dễ chịu được làm bằng những cảm giác không dễ chịu. Và cảm giác  không dễ chịu được làm bằng những cảm giác dễ chịu. Cái này làm ra cái  kia. Cái này có vì cái kia có. Mỗi tâm sở, mỗi hạt giống chứa đựng tất  cả những tâm sở khác, những hạt giống khác. Vì vậy cho nên thất niệm làm  cho mình trôi lăn trong sinh tử, nhưng nếu biết cách thì thất niệm có  thể thành chánh niệm. Không có gì phải vứt đi cả.

Bài tụng 33: Thức là biểu biệt                

Sinh diệt tùy nhân duyên
Thức vốn là biểu biệt.
Kiến và tướng nương nhau
Năng biệt và sở biệt.

 

Sinh diệt tùy nhân duyên: Chúng ta thấy có sinh và có diệt.  Sinh và diệt diễn bày trên căn bản của những điều kiện. Nếu không có đủ  điều kiện thì không có sinh, không có diệt. Nhưng nếu nhìn cho kỹ vào  bản chất của nhân và của duyên thì chúng ta sẽ thấy sinh diệt chỉ ở trên  bề mặt mà thôi. Nếu nhìn sâu vào tự thể thì ý niệm sinh, diệt cũng  không còn nữa.

Thức vốn là biểu biệt: Định nghĩa của thức trước hết là biểu  biệt. Biểu có nghĩa là phát hiện ra, biệt có nghĩa là phân biệt. Phát  hiện không có nghĩa là bắt đầu có. Không phát hiện không có nghĩa là  không có. Vì có biểu cho nên có biệt, có phân biệt. Có phân biệt là có  sai lầm, có kỳ thị, kỳ thị cái tự khác với cái tha. Đó  là cái tâm phân biệt (the discriminating mind), là lưỡi gươm chia cắt  tự và tha. Thức có tinh chất vikalpa. Vikalpa có nghĩa là phân biệt, là  biến kế. Biến kế có nghĩa là so sánh, đo lường. Biến là phổ biến, kế là  so đo. Cái này là tôi, cái kia không phải là tôi, cái này còn, cái kia  mất, cái này là trong, cái kia là ngoài. Vì con ốc sên đưa hai cái râu  ra (biểu) cho nên ta mới nói râu này là râu bên trái, râu kia là râu bên  phải (biệt), nếu không thì làm gì có bên trái, bên phải?

Khi một người được sinh ra, theo Duy Biểu, thì người đó được biểu  hiện. Được biểu hiện không có nghĩa là trước đó không có. Chỉ vì phân  biệt nên nói là có. Hai cái râu khi con sên chưa đưa ra mà nói là không  có thì đâu có đúng! Khi con sên đưa hai râu ra rồi mà nói là hai râu mới  sinh thì cũng không đúng!

Thức vốn là biểu biệt. Thức có hai tác dụng căn bản: một là  biểu hiện ra, hai là phân biệt.  Cho nên gọi là biểu biệt (vijñapti).  Danh từ Vijñapti có tiền từ vi. Tiền từ vi có nghĩa là phân biệt. Trong tiếng Sanskrit danh từ nào có tiền từ vi đều mang ý nghĩa phân biệt

Kiến và tướng nương nhau. Kiến phần luôn luôn nương vào  tướng phần để có mặt, tướng phần luôn luôn nương vào kiến phần để có  mặt. Chúng không thể có mặt riêng rẽ được. Khi đưa lên một cái đĩa thì  tự nhiên ta thấy mặt lưng và mặt bụng của cái đĩa cùng một lần. Không  thể nào có mặt lưng mà không có mặt bụng, không thể nào có mặt bụng mà  không có mặt lưng. Cũng thế, không thể nào có phải mà không có trái, có  trái mà không có phải. Trong kinh có hình ảnh "giao lô". Giao lô là  những cọng lau nương vào nhau, chống vào nhau mà đứng. Nếu một cọng rơi  xuống thì những cọng kia cũng rơi xuống luôn.

Năng biệt và sở biệt. Năng biệt là chủ thể phân biệt. Sở  biệt là đối tượng phân biệt. Chữ "năng" là subject. Chữ "sở" là object.  Khi chúng ta ăn bắp thì chúng ta là "năng ăn" và bắp là "sở ăn". Khi có  người giận (năng) thì phải biết ngay là có người bị giận (sở), không thể  nào khác được.

Khi một bà mẹ mang thai một đứa con thì đã có tình thương với đứa con  rồi, mặc dầu em bé chưa được sinh ra. Tình thương đó có tính cách đới  chất, vì bà mẹ đã tưởng tượng ra đứa con của mình mũm mĩm như thế này,  dễ thương như thế kia. Bà mẹ đã tạo ra một độc ảnh về đứa con sắp sinh.  Đối tượng của tình thương ấy, hầu như 99.9% là do tự thể phần của chính  bà mẹ tạo ra. Sự tạo tác, phân biệt, biến kế của bà mẹ đã tạo ra một  hình ảnh về đứa con, rồi thương yêu nó, dựa theo hình ảnh đó. Còn em bé  thật sự kia, thì rất khác với hình ảnh của đứa con trong tâm thức bà mẹ.

Bài tụng 34:  Tự và cộng biểu, ngã và vô ngã       
         

Nơi tự biểu, cộng biểu
Ngã, vô ngã không hai L
uân hồi mỗi sát-na
Bập bềnh sinh tử hải.

 

Tự biểu và cộng biểu. Khi nhìn vào một hiện tượng sắc (vật  chất) hay tâm (tinh thần) thì phải tập nhìn thế nào để thấy được vừa  tính chất tự biểu (individual manifestation), vừa tính chất cộng biểu  (collective manifestation) của hiện tượng đó.

Một thiếu phụ mang thai một em bé và thương em bé quá chừng. Đối  tượng của tình thương của bà (tức là em bé) mang rất nhiều tính chất tự  biểu. Người chồng cũng thương em bé, nhưng đối tượng tình thương của anh  khác với đối tượng của người vợ. Một người ngoài cuộc như vị bác sĩ săn  sóc cho thai nhi cũng có thể có cảm tình với thai nhi đó. Nhưng đối  tượng của tình thương của ba người rất khác nhau. Nói một cách khác,  tướng phần của tâm sở thương của ba người ấy rất khác nhau về tánh cách  tự biểu và cộng biểu.

Làng Mai là một hiện tượng mà chúng ta nghĩ là khách quan: không phải  là vì chúng ta muốn cái này, muốn cái kia mà chúng ta thay đổi Làng Mai  được. Xóm Thượng cách xóm Hạ mấy cây số, chúng ta cho rằng mấy cây số  đó là hoàn toàn khách quan. Nhưng kỳ thực trong mỗi chúng ta ý niệm về  khoảng cách giữa Xóm Thượng và Xóm Hạ khác nhau nhiều lắm. Trong tâm của  mỗi chúng ta chiều dài khoảng cách ấy không bằng nhau đâu!

Hình ảnh Làng Mai trong mỗi người chúng ta cũng rất khác nhau. Có bao  nhiêu người ngồi trong phòng này thì có bấy nhiêu hình ảnh của Làng  Mai. Làng Mai trong mỗi chúng ta có nhiều tính chất tự biểu và một ít  tính chất cộng biểu.

Khi nhìn một người thì hình ảnh mà chúng ta có về người đó không  giống hình ảnh của người đó trong tâm một người khác. Khi Thầy Nhất Hạnh  nhìn sư chú Pháp Đăng thì hình ảnh sư chú của Thầy không giống với hình  ảnh sư chú Pháp Đăng trong sư chú Nguyện Hải. Sư chú Pháp Đăng của Thầy  có tự biểu của Thầy, sư chú Pháp Đăng của Nguyện Hải có tự biểu của  Nguyện Hải. Tuy nhiên, hình ảnh sư chú Pháp Đăng của Thầy và hình ảnh sư  chú Pháp Đăng của Nguyện Hải có nhiều yếu tố giống nhau. Đó là tính  chất cộng biểu giữa Thầy và sư chú Nguyện Hải. Nhưng mà một người thứ  ba, như anh của Pháp Đăng ở Cali, thì không thấy được những cái mà Thầy  và sư chú Nguyện Hải thấy về sư chú Pháp Đăng. Tại vì anh của Pháp Đăng ở  Cali có một hình ảnh của sư chú Pháp Đăng rất khác hình ảnh mà Thầy và  Nguyện Hải có về sư chú Pháp Đăng. Thế mà cả ba chúng tôi (Thầy, sư chú  Nguyện Hải, anh của sư chú Pháp Đăng), ai cũng tin tưởng rằng: "Tôi biết  người đó (sư chú Pháp Đăng), tôi biết quá mà, tôi biết rõ lắm mà!".

Cho nên phải quán chiếu, phải có chánh niệm để thấy được cái đối  tượng nhận thức của mình vừa mang tính chất cộng biểu vừa mang tính chất  tự biểu.

Một câu hỏi cần được nêu lên: cộng biểu là cộng biểu của ai? Cái bàn  này đối với chúng ta là một tấm gỗ khô, trên đó ta đặt vật dụng, tách  trà, máy cassette. Đó là tính chất cộng biểu của chúng ta, loài người ở  tại Làng Mai này. Nhưng mà đối với những con mọt sống trong cái bàn này  thì chúng không chia sẻ cái cộng biểu đó. Cộng biểu giữa những con mọt  đối với cái bàn này là một kho thực phẩm nuôi sống chúng. Những con mọt  thấy cái bàn là thức ăn. Cũng thế, nhìn một con cá bơi lững lờ nhà khoa  học thấy khác, nhà thi sĩ thấy khác và người làm bếp thấy con cá khác.  Kết kuận: đối tượng và nhận thức tùy thuộc vào những hạt giống có sẵn  trong A-lại-gia thức của mỗi người.

Ngã, vô ngã không hai. Nếu hiểu được rằng không có gì hoàn  toàn tự biểu, không có gì hoàn toàn cộng biểu và quán chiếu đến mức sâu  sắc thì ý niệm về tự, về cộng sẽ tan biến. Tự biểu, cộng biểu, cũng như  ngã, vô ngã không phải là hai.

Tuy nhiên chúng ta phải dùng những ý niệm đó trong lúc ban đầu. Chúng  ta đã học về tính chất cộng biểu và tự biểu của thần kinh thị giác.  Thần kinh thị giác của tôi liên hệ rất nhiều với việc học hành và lái xe  của tôi. Nhưng thần kinh thị giác của tôi cũng dính líu tới anh. Tính  mạng của anh khi ngồi trên xe do tôi lái tùy thuộc vào sự lành mạnh của  thần kinh thị giác của tôi nhiều lắm.

Giống như thế, cơn giận trong lòng anh là của anh, nó làm cho anh  khổ, nó có tính chất tự biểu, nhưng như vậy không có nghĩa là nó không  dính líu gì tới tôi. Mỗi khi anh giận anh làm cho tôi và những người  khác mất hạnh phúc. Vậy cho nên, hạt giống giận trong anh có tính chất  tự biểu của anh mà cũng có tính chất cộng biểu của tôi.

Tất cả mọi hiện tượng đều như vậy hết. Hạnh phúc hay đau khổ của một  người sống bên xứ Campuchia có liên hệ tới hạnh phúc hay đau khổ của  chúng ta ở đây. Một lỗ hổng của tầng Ozone trên bầu trời có liên hệ tới  sự sinh tồn của tất cả các sinh vất sống trên trái đất. Thấy được tính  chất tự biểu và cộng biểu như vậy thì ý niệm về tự, tha, ngã và vô ngã  không còn nữa.

Ngã và phi ngã. Chúng ta quen phân biệt về cái ta và cái không phải  ta, về ngã và phi ngã (nên nhớ phi ngã không phải là vô ngã). Chúng ta  nói rằng chỉ cần lo cho cái ta (ngã) mà thôi, còn cái không phải ta (phi  ngã) thì nó tự lo lấy.

Nhưng lần hồi trong sự sống, chúng ta tìm ra sự thật là nếu không lo  cho cái phi ngã thì chúng ta sẽ "lãnh đủ!" Vợ phải lo cho chồng nếu  không thì sẽ khổ. Cha mẹ phải lo cho con, nếu không thì cũng sẽ điêu  đứng.

Các nước gọi là phát triển lâu nay ích kỷ, chỉ lo cho nền kinh tế của  đất nước họ mà thôi. Khi mà kỹ thuật phát triển, hàng hóa sản xuất  nhiều thì phải tìm thị trường. Muốn có thị trường thì phải tìm thuộc  địa. Nhưng chế độ thuộc địa nay đã lỗi thời. Các nước phát triển phải sử  dụng ngoại giao, viện trợ kinh tế, kỹ thuật cho các nước chậm tiến với  mục đích chính là để mở rộng thị trường. Nhưng lần lần các nước phát  triển đã học được bài học: nếu không lo cho các nước chậm tiến thì chính  các nước phát triển sẽ lâm nguy.

Vấn đề dân số là một thí dụ. Hiện tượng di dân, nhập cư bất hợp pháp  từ các quốc gia nghèo khó là một vấn đề lớn cho nhiều nước phát triển  như Mỹ, Pháp v.v... Không có cách gì để chặn đứng việc nhập cảnh bất hợp  pháp. Một thí dụ khác: các nước chậm tiến vay tiền rồi có thể vỡ nợ  không trả được. Hệ thống tiền tệ thế giới có thể sụp đổ và các nước phát  triển sẽ bị nguy. Đây là bài học tương tức.

Cần phải thực tập vô ngã

Ban đầu chúng ta phân biệt ngã và phi ngã. Rồi từ từ chúng ta học  được rằng không có một cái ngã riêng biệt vì cái này nương vào cái kia,  và vì vậy chúng ta đưa ra ý niệm không có một cái ngã, ý niệm về vô ngã.  Chúng ta thoát được ý niệm về ngã là nhờ giáo lý vô ngã và sự thực tập  vô ngã.

Nhưng mà ý niệm vô ngã cũng nguy hiểm. Thoát ra được ý niệm về ngã  rồi kẹt vào ý niệm về vô ngã thì cũng hỏng.  Kẹt vào ý niệm vô ngã,  giống như ta bị cầm tù. Và vì vậy cho nên chúng ta đã học Tam Pháp Ấn.  Chúng ta đã biết niết bàn là sự vượt thoát tất cả mọi ý niệm, không  những thoát ý niệm về thường, về ngã mà thoát luôn ý niệm về vô thường,  về vô ngã. Ý nghĩa của câu "Ngã, vô ngã không hai" là như vậy.

Có nhiều người (Phật tử hay không phải Phật tử) nói thao thao bất  tuyệt về vô ngã, nhưng trong cách hành xử hằng ngày, trong đời sống họ  vẫn đau khổ, vẫn bị đọa đày trong ngục tù của ngã. Vì vậy ý niệm về vô  ngã cần được phá vỡ. Ngã và vô ngã không phải là hai đâu! Ý niệm ngã mà  có được là nhờ ý niệm vô ngã. Ý niệm vô ngã mà có được là nhờ ý niệm  ngã. Ngã và vô ngã tương tức. Tính cách tương tức nằm ngay trong ý niệm  ngã và vô ngã.

Luân hồi mỗi sát-na.

Luân hồi không có nghĩa là khi chết chúng ta mới đi luân hồi. Chúng  ta đi luân hồi ngay từ bây giờ. Chúng ta nhớ lại đốm lửa của cây nhang.  Đốm lửa của cây nhang luân hồi từng sát-na. Đốm lửa trong sát-na hiện  tại là hậu thân của đốm lửa trong sát-na trước.

Nhận thức của chúng ta bị kẹt vì ý niệm đường thẳng và tính chất liên  tục của không gian một chiều. Ta thường nghĩ rằng cái ta của giây phút  này biến thành cái ta của giây phút kế, rồi giây phút kế nữa, theo một  con đường thẳng như những đốm lửa của cây nhang. Sự thật không đơn giản  như vậy. Chúng ta không luân hồi theo đường thẳng. Chúng ta cũng không  luân hồi theo đường cong, hay nói cho đúng hơn, chúng ta không luân hồi  chỉ theo một đường cong nhất định.

Trong mỗi giây phút, sở dĩ có sự chuyển đổi là vì có những tăng  thượng duyên, có những dữ kiện chúng ta thâu nhập vào. Mỗi giây phút  chúng ta thở vào, chúng ta tiếp nhận rất nhiều từ vũ trụ, vạn hữu, từ xã  hội, từ thức ăn, không khí, giáo dục, thương ghét; đồng thời chúng ta  thở ra thán khí, chúng ta gửi đi các điều kiện, các nhân duyên của chúng  ta, chúng ta làm cho người khác vui, buồn. Nghĩa là chúng ta thâu nhận  (input) và phân phát (output) cùng một lúc. Vì vậy cho nên nghĩ rằng  chúng ta đi về một hướng là không đúng, chúng ta đi về mọi hướng trong  cùng một lúc.

Tưởng tượng trước đây 45 năm tác giả viết một cuốn sách. Những tư  tưởng trong sách là do tác giả thâu thập được từ cuộc sống, từ học vấn  do các Thầy dạy, do Bụt dạy. Bây giờ quý vị có thể đi theo cuốn sách ấy  được không? Không thể nào được. Tại vì nhiều người đọc cuốn sách đó nay  đã chết. Tư tưởng và lối sống của họ do ảnh hưởng của cuốn sách tác giả  viết đã đi vào con cháu của họ. Không thể nào chạy theo để thấy được  Thầy Nhất Hạnh luân hồi về đâu. Thầy Nhất Hạnh đã đi về mọi nẻo không  thể chạy theo được.

Một lời nói, một câu văn, một tư tưởng, một lá thư gửi đi, là nó đã  lên đường! Và khi đã lên đường rồi thì không kéo trở lui được nữa. Cho  rằng chúng ta đang đi trên con đường thẳng, đến điểm chót của đường  thẳng ấy thì chết là không đúng. Chúng ta đã lên đường, chúng ta có mặt  khắp cả vũ trụ, chúng ta luôn luôn tiếp diễn.

Như một bình trà mời bạn bè cùng uống đã pha đến nước thứ ba, thứ  năm. Nước trà đã "đi khắp nơi". Chỉ còn lại xác trà, một phần nhỏ của  trà. Vậy thì khi chết thì người nào đã chết đi? Ai chết? Có phải ta chết  hay không? Thân thể này - cũng như xác trà - chỉ là một phần nhỏ của ta  mà thôi. Ta đã lên đường, ta đã đi khắp vũ trụ. Ta đã có mặt nơi con  cháu, bạn bè, độc giả của ta. Ta có mặt nơi những người ta đã hiến tặng  hạnh phúc, nơi những người ta đã mang lại khổ đau. Ta đã đi luân hồi sâu  sắc trong từng sát-na. Ý niệm cho rằng tới điểm chót của cuộc đời, của  con đường thẳng, ta mới chết, mới đi luân hồi không phải là một ý niệm  của Đạo Bụt thâm sâu mà là một ý niệm của Đạo Bụt bình dân.

Nhờ quán chiếu tự biểu, cộng biểu chúng ta thấy ngã và vô ngã không  phải là hai, và thấy mình luân hồi mỗi sát-na. Luân hồi bằng ba nẻo:  thân, miệng và ý. Chúng ta liên hệ với nhau rất mật thiết mà không biết  đó thôi. Những dấu chân trên mặt đất, trên con đường thiền hành của Xóm  Thượng, những hơi thở chánh niệm trong thiền đường dưới Xóm Hạ đã thấm  vào tất cả chúng ta, đã đi vào vũ trụ.

Đừng nói rằng: "Tôi không muốn dính líu tới người đó". Không dính líu  sao được? Trong hơi thở của anh có hơi thở của "người đó" pha trộn vào,  khoa học cho biết như vậy. Cho nên hãy cho những gì nhẹ nhàng, tươi  mát, an lạc đi luân hồi. Đừng có cho những cái nặng nề đi luân hồi. Tội  nghiệp cho mình và tội nghiệp cho người. Hãy phóng ra những luồng điện,  hãy gửi đi những thông điệp, những nguồn năng lượng của nhẹ nhàng, giải  thoát, của an lạc để cho cuộc đời tốt đẹp hơn.

"Bập bềnh sinh tử hải" là bập bềnh trong biển sinh tử. Luân  hồi sinh tử trong mỗi phút mỗi giây chứ không phải đợi đến mấy chục năm  nữa. Ta đang chết bây giờ và cái chết của ta có thể đem tới những cái  rất đẹp, rất hay. Phải thấy cho được là ta đang chết trong từng phút  từng giây.

Đứng về phương diện sinh học thì khi ta cào lên da, có hàng trăm,  hàng ngàn tế bào rơi rụng. Những tế bào ấy rơi rụng để các tế bào khác  sinh ra. Đó là một điều rất cần thiết. Trong tự thân, về thân thể cũng  như về tâm hồn, những hạt giống, những tâm hành, những tế bào đã đi qua  sinh tử trong từng phút, từng giây. Phải thấy cho được điều đó. Mà phải  thấy bằng bước chân, bằng hơi thở, bằng sự sống chứ không phải bằng lý  thuyết. Khi đạt tới cái thấy sâu sắc về không sinh, không tử, không một,  không nhiều thì sẽ hết lo sợ và đạt tới vô úy.

Bài tụng 35: Tương tức, tương nhập                

Thời, không và bốn đại
Đều do thức hiện bày.
Tương tức và tương nhập
Dị thục từng phút giây.

 

Bốn đại (mahābhūta, the four great elements) là bốn loại năng lượng:  đất (pṛthivii - rắn chắc), nước (apas - thấm nhuận), gió (vāyu - sức  mạnh), lửa (tejas - nhiệt lượng). Bốn yếu tố đó dung chứa nhau, làm ra  nhau và đều có tính chất vô ngã. Mỗi thứ năng lượng đó đều có thể biến  ra thứ năng lượng khác. Nước có thể biến ra điện, ra lửa. Đừng nghĩ rằng  tứ đại là những thứ độc lập, riêng rẽ - vì cả bốn đều liên quan chặt  chẽ với nhau. Nhiều khi người ta cũng nói tới các đại thời gian và không  gian, thức và phương hướng, nên ta có tới 8 đại thay vì 4 đại.

Thời và không là thời gian và không gian. Thời gian nương  vào không gian mà hiện hữu. Vật chất nương vào thời gian, không gian mà  có. Khoa học đã chứng minh rằng nếu không có không gian thì không có vật  thể và nếu không có vật thể thì không có không gian. Không gian và vật  thể làm ra nhau. Albert Einstein đã nói rất rõ rằng thời gian và không  gian là hai mặt của cùng một thực thể.

"Hãy đến cùng tôi dưới chân hùng phong không tên gọi

Ngồi trên những tảng đá xanh không tuổi

Lặng nhìn thời gian se từng sợi tơ óng ánh

dệt thành bức lụa không gian..."

(Uyên Nguyên, thơ Nhất Hạnh)

Phương hướng cũng là sáng tạo phẩm của thời gian và không gian. Nếu  không có không gian và thời gian thì không thể có phương hướng. Thức  cũng là một loại năng lượng có thể làm ra các yếu tố đất, nước, gió,  lửa, thời gian, không gian v.v...Nói tóm lại: địa, thủy, hỏa, phong,  không (gian), thời (gian), phương (hướng), và thức là tám đại. Một trong  tám đại ấy dung chứa bảy đại kia. Vì vậy nói bốn đại cũng đúng, nói tám  đại cũng đúng, nói một cũng đúng.

"Thời gian, không gian và bốn đại đều do thức hiện bày". Tất cả đều  là biểu hiện của thức. Chúng ta biết rằng thức là biểu biệt. Thức biểu  hiện và phân biệt ra tám đại. Nhưng người có trí tuệ thì không nên dùng  lưỡi dao phân biệt để chia cắt ra tám đại riêng rẽ.

Tương tức và tương nhập. Tất cả các hiện tượng, một trái  núi, một đám mây, một hạt bụi đều có tính chất tương tức tương nhập. Cái  này bao trùm cái kia. Cái kia nằm trong cái này. Bụt đã nói một cách  rất đơn giản mà uyên thâm: "Cái này có vì cái kia có" (Trung A Hàm).

Tương tức là kết luận đương nhiên của vô ngã quán. Khi tương tức trở  thành một tuệ giác, không chỉ thuần là một ý niệm, thì khổ đau được  chuyển hóa. Khi chứng nhập tương tức thì vượt thoát sinh tử. Tương tức  và tương nhập là hai ý niệm của Hoa Nghiêm. Tương tức nghĩa là cái này  là cái kia (inter-are), tương nhập nghĩa là cái này đi vào cái kia  (inter-penetration). Trong nhận thức tương tức, tương nhập thì đám mây  nằm trong bông hoa và bông hoa nằm trong đám mây. Điều này có thể quán  chiếu. Màng lưới Đế Thích (Indra nest) gồm những hạt châu lóng lánh nối  kết với nhau, là hình ảnh tuyệt diệu của tính tương tức, tương nhập.

Dị thục từng phút giây. Dị thục được phát sinh từng phút  giây chứ không xảy ra sau một thời gian dài. Dị thục trong mỗi giây phút  cho nên chúng ta luân hồi trong mỗi giây phút. Tôi bây giờ mới sinh.  Tôi hôm qua đã chết. Và tôi bây giờ đang sinh từ cái tôi của ngày hôm  qua.