Bài Tụng 28-30

Thứ Năm, 21 Tháng Tư 201610:51 CH(Xem: 2849)
Bài Tụng 28-30
Bài tụng 28: Sóng trên nước                

Năm thức cảm giác sinh
Dựa trên dòng ý thức
Phát hiện riêng và chung
Như sóng nương trên nước.

 

Có thể nói thức thứ sáu là nước và năm thức đầu là sóng. Năm thức đầu  phát sinh khi năm giác quan tiếp xúc với các đối tượng của chúng. Các  đối tượng đó là hình tướng (sắc), âm thanh, mùi hương, vị và các xúc  chạm. Năm thức đầu là nhãn thức, nhĩ, tỷ, thiệt và thân thức. Các thức  này có thể biểu hiện độc lập hay cùng một lúc với ý thức. Ý thức giống  như nước và năm thức cảm giác giống như sóng trên mặt đại dương.

Khi ngắm một bức tranh mà mình thích, chúng ta đem tất cả tâm ý hướng  vào việc ngắm nhìn bức tranh và đóng cửa các giác quan khác lại. Có  người đến hỏi thăm mình không nghe, vỗ lên vai cũng không biết. Trong  trường hợp đó nhãn thức biểu hiện riêng, không liên quan tới bốn thức  kia.

Khi coi phim trên máy truyền hình thì cố nhiên phải dùng cả mắt và  tai. Nhãn thức và nhĩ thức khi đó biểu hiện chung. Khi năm thức hoạt  động chung thì năng lượng của định không vững. Nếu ta mắc năm hay mười  bóng đèn vào một bình điện thì ánh sáng sẽ yếu hơn là khi chỉ mắc một  bóng. Năng lượng của ý thức cũng có hạn, nếu làm nhiều việc cùng một lúc  thì không việc nào vững chãi. Phải tập trung tâm ý vào một việc (nhìn  hay nghe...) thì mới có nhiều năng lượng. Ý thức cũng vậy, khi ta muốn  có tri giác thâm sâu, ta cần đóng hết các cửa của năm thức cảm giác lại  để quay về trung tâm của ý thức để có thể sử dụng ý thức trong định một  cách vững chãi.

Khi năm  thức cảm giác hoạt động một mình, không có ý thức can thiệp  vào, chúng có thể tiếp xúc với chân như, với bản môn. Năm thức cảm giác  có cơ hội "sống" với tánh cảnh, với thực tại như-nó-là. Năm thức khi đó  có nhiều cơ hội hơn là khi chúng hợp tác với ý thức, vì ý thức, dưới ảnh  hưởng của Mạt-na, luôn luôn có những nhận thức phân biệt, đối đãi.

Bình thường, các thức cảm giác chỉ hoạt động độc lập được trong một  thời gian rất ngắn, sau đó ý thức sẽ chen vào, và do ảnh hưởng của  Mạt-na, mọi sự vật sẽ bị biến dạng, khác với bản chất uyên nguyên của  nó. Biến kế chấp là khuynh hướng nhìn sự vật với cái tâm phân biệt, khác  với chân như bản thể của chúng. Vì vậy, chúng ta cần huấn luyện ý thức  để có thể nhìn sâu và có các nhận thức trực tiếp. Nếu không, chúng ta  chỉ nhìn thấy các hình ảnh khác với bản chất của sự vật do các hạt giống  trong tàng thức ta dựng lên mà thôi.

Trong bài tụng thứ hai chúng ta đã học về "danh xưng và tướng trạng"  (lakṣaṇa - samjñā-lakṣaṇa). Khi năm thức đầu hoạt động, không bị ý thức  xen vào, thì chân như, thực tướng (svalakṣaṇa) của sự vật có thể hiển  lộ. Khi có ý thức xen vào các thức cảm giác, chúng ta chỉ có những nhận  thức đã bị biến đổi về các sự vật (các tướng trạng). Chúng ta thực tập  chánh niệm để thay đổi thói quen cố hữu (nhận thức các sự vật theo danh  xưng và tướng trạng); để tập nhìn sâu vào bản chất thực tại: thức thứ  sáu (ý thức) có thể hoạt động giống như năm thức cảm giác đầu.

Bài tụng 29: Đặc tính của tri giác                 

Tánh cảnh và hiện lượng
Có ba tánh đầy đủ
Nhờ vào tịnh sắc căn
Và cảm giác trung khu.

 

Hình thái nhận thức của năm thức cảm giác đầu là hiện lượng  (pratyakṣa-pramāṇa, direct perception) nghĩa là nhận thức trực tiếp,  không qua trung gian suy luận. Vì vậy thỉnh thoảng, khi năm thức cảm  giác hoạt động độc lập, chúng có thể đạt tới thế giới tánh cảnh. Như một  em bé nhìn đồ chơi của nó chẳng hạn, em bé không dùng tới ý thức của nó  bao nhiêu: không có sự so sánh, nhớ tưởng hay phán xét. Em chưa được  học hỏi để nghĩ rằng "cái đồ chơi này không nhiều màu sắc bằng cái kia,  tôi thích đồ chơi kia hơn" Em bé chỉ thích thú thứ đồ em đang nhìn thấy  hay đang cầm nó trong tay. Như vậy, cái nhìn trực tiếp và tánh cảnh là  điều có thể đạt tới.

Khi ta ngắm một bông hoa mà không suy nghĩ hay hồi tưởng hay so sánh  nó với bông hoa nào khác ta đã nhìn thấy trước đây, thì ta có thể nhìn  thấy bông hoa-như-nó-là. Nhận thức trực tiếp này là nhãn thức, hoạt động  độc lập với ý thức. Nhận thức trực tiếp của năm thức đầu có tính chất  tươi mát và thơ ngây, giống như thế giới tánh cảnh của các em bé.

Khi năm thức cảm giác cộng tác với thức thứ sáu (ý thức) và thức thứ  sáu đưa vào các yếu tố danh, ngôn, ý niệm để so sánh, phân biệt thì khó  mà đạt tới thế giới tánh cảnh, chỉ đạt tới thế giới đới chất cảnh. Ý  thức có khuynh hướng phân biệt, so sánh, đặt tên mọi sự vật, và thế giới  tánh cảnh không còn biểu hiện ra được nữa. Một cái nhìn vô tâm ban đầu  không có kỷ niệm vui buồn, không có danh từ, không có ý niệm, không có  sự phối hợp của các chủng tử của A-lại-gia thức để so sánh là một cái  nhìn hiện lượng và có thể đạt tới tánh cảnh. Như thế hình thái nhận thức  của năm thức cảm giác cũng giống hình thái nhận thức của thức thứ tám,  là hiện lượng và thỉnh thoảng nó cũng đạt được tánh cảnh, trước khi có ý  thức xen vào. Khi ý thức đưa ra những hạt giống của nhớ tưởng, kinh  nghiệm, của buồn vui, so sánh, thì thế giới tánh cảnh biến mất.

Khi chúng ta ngắm một bông hoa với cái nhìn trực tiếp, không nhớ  nghĩ, không so sánh với bất kỳ bông hoa nào khác trong hiện tại hay  trong quá khứ, tức khắc ta nhìn thấy tánh cảnh (thực tại) của bông hoa.  Đó là nhãn thức không bị ý thức ảnh hưởng. Ngay khi ý thức chen vào, năm  thức đầu không còn độc lập nữa, và các nhận thức của chúng chỉ còn tính  cách đới chất.

Các thức thứ sáu và thức thứ bảy khác với năm thức đầu. Thức thứ bảy  bị che lấp (hữu phú) cho nên chủ thể của nó không phải là chân hiện  lượng mà là tợ hiện lượng. Chủ thể của thức thứ sáu có cả ba lượng: hiện  lượng, tỉ lượng và phi lượng. Vì có căn là Mạt-na và bị Mạt-na ảnh  hưởng nên thức thứ sáu cũng thường có các tri giác sai lầm.

Thức thứ sáu cũng có thể sử dụng trực giác. Nếu trực giác đó đúng thì  gọi là chân hiện lượng và đạt được tánh cảnh. Nếu trực giác sai thì chỉ  là tợ hiện lượng và không đạt được tánh cảnh. Trong trường hợp thức thứ  sáu đem cái kho kinh nghiệm và kỷ niệm của mình ra để nhận thức thì chỉ  đạt đến đới chất cảnh mà thôi. Sau cùng, thức thứ sáu có thể đạt tới  thế giới của độc ảnh, tức là thế giới của chiêm bao. A-lại-gia thức là  kho chứa độc ảnh. Trong giấc mơ chúng ta trở về lục lọi trong kho  A-lại-gia và dùng những hình ảnh độc ảnh để tạo ra giấc mơ.

Giây phút đầu tiên thơ ngây, giây phút hồn nhiên của em bé sơ sinh,  không kỷ niệm, không so sánh là một ví dụ của giây phút đạt được tánh  cảnh - có nhận thức trực tiếp về thực tại của sự vật. Tuy nhiên, thế  giới mà chúng ta đang sống là một thế giới nặng về đới chất, một thế  giới chỉ có một chút bản chất của thế giới tánh cảnh, ngoài ra thì chúng  ta dùng kinh nghiệm, kiến thức mà tô màu, mà so sánh phân biệt thế giới  ấy, nên ta không có được các nhận thức trực tiếp nữa. Vikalpa có khi  dịch là phân biệt và tạo tác. Tạo tác có nghĩa là tự mình tạo ra.

Khi học về thức thứ sáu trong bài tụng 24, chúng ta đã nói rằng thức  thứ sáu "tiếp xúc với ba cảnh, thông ba tánh, ba lượng". Tóm lại, thức  thứ sáu có thể đạt tới tánh cảnh nhưng thường thường thì chỉ đạt tới đới  chất và độc ảnh cảnh vì nó có tính chất phân biệt và tạo tác.

Đặc tính của tri giác

Trước đây chúng ta có nhắc đến một câu nói của Bụt: "tưởng tức là hồi  tưởng". Tri giác tức là nhớ lại những kinh nghiệm, những cảm giác có  sẵn trong mình để so sánh. Hình ảnh do tri giác chỉ là một hình ảnh do  chúng ta tạo nên, do các hạt giống chứa sẵn trong tàng thức. Các nhận  thức của chúng ta liên quan mật thiết tới những hạt giống của các tri  giác, các kinh nghiệm trong quá khứ. Khi các hạt giống so sánh, phân  biệt từ tàng thức biểu hiện ra trên ý thức, chúng ta không nhìn thấy sự  vật như chúng là nữa, mà chỉ nhìn thấy hình ảnh của chúng theo tri giác  của ta mà thôi. Vì tri giác ta bị nhiễm những cảm xúc, nhớ tưởng, kiến  thức riêng v.v.., ta không thể tiếp xúc được với thực tướng, với chân  như của sự vật.

Ví dụ khi nghe tên một người, ông Nguyễn văn A chẳng hạn, có thể  chúng ta đã có những cảm nghĩ, kinh nghiệm, đau khổ, vui buồn liên hệ  tới ông Nguyễn văn A. Ông Nguyễn văn A đó là Nguyễn văn A "của ta", của  niềm đau, nỗi khổ hoặc hạnh phúc có sẵn trong ta. Khi nghe đến tên  Nguyễn văn A thì bao nhiêu niềm đau, nỗi khổ hay hạnh phúc trong ta trỗi  dậy, và cái nhận thức về ông Nguyễn văn A là nhận thức lấy từ trong ta  ra nhiều hơn là từ thực tại bản thân của ông Nguyễn văn A. Cho nên, tri  giác của chúng ta, nhận thức của chúng ta tùy thuộc rất nhiều những hạt  giống có sẵn trong thức A-lại-gia. Khi Mạt-na (thức thứ bảy) tham dự  vào, đưa những hạt giống đó lên để so sánh, để thẩm sát thì hình ảnh do  tri giác không còn là hình ảnh chân thật của tự thân nữa, không còn là  tánh cảnh nữa, vì nó đã được tô nhuộm bởi những tình cảm, kỷ niệm, những  cái thấy, cái biết có sẵn trong chúng ta.

Ví dụ như Làng Mai là một thực tại và chúng ta muốn biết tự thân thực  tại (chân như) của Làng Mai. Có thể chúng ta có những ý niệm về Làng  Mai, nghe nói về Làng Mai, có những kỷ niệm vui, buồn, thương, ghét về  Làng Mai cho nên khi tới Làng Mai chúng ta tạo ra một đới chất cảnh về  Làng Mai. Làng Mai của chúng ta thuộc về đới chất cảnh nhiều hơn tánh  cảnh và chúng ta không biết được tự thân thực tại Làng Mai.

Một ví dụ khác: trong câu "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", vì  buồn mà tâm chúng ta tô màu cho cảnh buồn thêm chứ cảnh không bao giờ tô  màu sự buồn vui của chúng ta. Hoặc nữa, khi gặp một người mà chúng ta  có thể cảm thấy có hạnh phúc hay không hạnh phúc thì điều đó tùy thuộc ở  chất liệu trong tâm (tàng thức) chúng ta.

Mặc dù trên nguyên tắc chúng ta có thể đạt được tới thế giới của bản  chất thực tại, của tánh cảnh, nhưng nếu bị giam hãm nhiều quá trong thế  giới đới chất thì khó mà tiếp xúc với thế giới của bản chất, của tánh  cảnh. Khi chúng ta đưa chánh niệm vào ý thức thì có thể thay đổi. Mỗi  khi cái thấy hay cái nghe đưa đến những cảm thọ hoặc vui hoặc buồn, nhờ  có chánh niệm chúng ta mới có cơ hội đặt câu hỏi: "Cái này là cái gì? Nó  thuộc thế giới đới chất hay tánh cảnh? Có phải thực tại của nó ở ngoài  là như vậy hay không? Hay là chính mình tạo ra cái thực tại đó?"

Ví dụ như khi chúng ta đi mua áo. Trong tiệm trưng bày hàng chục  chiếc áo, cái nào mình cho là đẹp thì mua. Chúng ta có cảm tưởng mình là  một người tự do. Nó đẹp thì mình cho là đẹp, làm như cái đẹp của chiếc  áo chỉ tùy thuộc vào cái tánh cảnh ở ngoài. Nhưng không ngờ rằng tất cả  đều được sắp đặt sẵn. Ý niệm về đẹp hay xấu đã nằm sẵn trong tâm thức  chúng ta do giáo dục, do huân tập. Và khi nhìn một chiếc áo mà bị thu  hút thì sức thu hút đó nằm trong tâm thức chúng ta chứ không phải nằm  trong chiếc áo. Nếu có chánh niệm thì chúng ta sẽ tự hỏi: "Cái áo đẹp là  đẹp với ai, nó là một thực tại khách quan hay chủ quan?"

Tính cách khách quan của thực tại.

Một vấn đề được đặt ra là tính cách khách quan của thực tại, hay nói  một cách khác, ngoài tâm thức có một thế giới độc lập hay không? Khi  ngắm núi tuyết Phú Sĩ chúng ta có thể tự hỏi: "Núi tuyết Phú sĩ có ngoài  ta hay trong ta?" Duy Biểu dạy rằng, theo nguyên tắc, chúng ta có thể  đạt tới tánh cảnh của núi tuyết ấy. Chúng ta nhớ lại rằng A-lại-gia thức  có hai tác dụng: duy trì và biểu hiện. Sự biểu hiện ấy gồm có căn thân,  thế giới và thức. Vậy thì, thế giới tánh cảnh của núi tuyết Phú sĩ là  biến tướng của A-lại-gia, là một biểu hiện của A-lại-gia. Sự biểu hiện  này vừa có tính cách cộng biểu vừa có tính cách tự biểu. Bất cứ hiện  tượng nào cũng vừa có tính cách cộng biểu vừa có tính cách tự biểu.

Chúng ta nhớ lại hình ảnh của căn phòng được thắp sáng bởi nhiều đèn  cầy. Mỗi vùng ánh sáng trong căn phòng đó đều có tính cách tự biểu (do  ánh sáng của một cây đèn) và cộng biểu (do ánh sáng của những cây đèn  khác). Cũng vậy, núi tuyết Phú sĩ không có tính cách hoàn toàn khách  quan. Núi tuyết Phú sĩ là một biểu hiện tâm thức cộng đồng, của  A-lại-gia cộng đồng. Nhưng đối với những người sống lâu năm gần núi thì  nó có tính cách tự biểu nhiều hơn là cộng biểu.

Chúng ta có một độc ảnh (do ý niệm) về núi tuyết Phú sĩ và khi đến  chân núi và nhìn lên thì chúng ta có một hình ảnh đới chất về núi đó. Ta  có thể đạt đến một phần bản chất (tánh cảnh) của núi, nhưng hình ảnh  của núi tuyết ấy luôn luôn nặng về đới chất. Khi những đau buồn, kỷ  niệm, thành kiến trong chúng ta được gột sạch đi thì chúng ta có thể đạt  được thế giới tánh cảnh. Đó là đặc tính của tướng phần của A-lại-gia  thức.  Cái bàn này, bông hoa này, chén trà này, tất cả đều nằm trong  phạm vi tướng phần của A-lại-gia thức. Nhưng không phải A-lại-gia hoàn  toàn tự biểu mà đó là một sản phẩm cộng biểu và tự biểu.

Bài tụng 30: Tâm sở trong các thức cảm giác                

Tâm sở là biến hành
Biệt cảnh, thiện, đại tùy
Trung tùy hai phiền não
Và cả tham, sân, si.

 

Những tâm sở của năm thức cảm giác gồm có 5 tâm sở biến hành, 5 tâm  sở biệt cảnh, 11 tâm sở thiện, 8 tâm sở đại tùy, 2 tâm sở trung tùy, và 3  tâm sở căn bản phiền não tham, sân, si. Tổng cộng là 34 tâm sở.

Trong giây phút đầu tiếp xúc với sự vật (trần), năm thức cảm giác đạt  tới tánh cảnh; chúng chỉ cần năm tâm sở biến hành mà thôi (tức là xúc,  tác ý, thọ, tưởng, tư).  Khi các thức cảm giác cộng tác với thức thứ  sáu, chúng sẽ trôi nổi theo thức thứ sáu, do đó chúng có thêm năm tâm sở  biệt cảnh (dục, thắng giải, niệm, định, tuệ); cũng như các tâm sở thiện  và bất thiện.

Mười một tâm sở thiện gồm có: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si,  cần, khinh an, bất phóng dật, hành xả và bất hại. Các tâm sở bất thiện  gồm có ba trong sáu tâm sở căn bản phiền não: tham, sân, si; tám tâm sở  đại tùy: trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán  lọan, bất chánh tri; và hai tâm sở trung tùy: vô tàm, vô quý.