Ghi Chú

Thứ Ba, 26 Tháng Bảy 20162:39 CH(Xem: 3416)
Ghi Chú
TỪ BI THỦY SÁM
Thích Trí Quang dịch

Ghi Chú (1)

Nguyên tác của ai không rõ, chỉ theo nội dung biết viết từ đời Tống. Có 2 bài, nhưng chỉ bài này cần dịch mà thôi.

 

Ghi Chú (2)

Có chỗ giải thích là phung hủi.

 

Ghi Chú (3)

Cũng gọi là núi Cửu long hay Cửu lũng.

 

Ghi Chú (4)

36 vật, nguyên văn có kê đủ (mà tôi đã lược đi): tóc, lông, móng, răng, ghèn, nước mắt, nước mũi, nước miếng, cáu bẩn, mồ hôi, đại tiện, tiểu tiện, da ngoài, da trong, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ miếng, mỡ nước, óc, màng, lá lách, quả cật, tim, phổi, gan, mật, ruột, dạ dày, đàm hồng, đàm trắng, sinh tạng, thục tạng.

 

Ghi Chú (5)

Sarvajna: nhất thế trí (toàn giác).

 

Ghi Chú (6)

Từ ngữ 7 thứ quí báu có 2: 1. thường nói nhất là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. 2. nói trong trường hợp liên hệ Luân vương. Thì 7 thứ quí báu ấy là luân bảo (xe quí) tượng bảo (voi quí) mã bảo (ngựa quí) châu bảo (ngọc quí) nữ bảo (gái quí) chủ tạng thần bảo (đại thần quí chủ về kho tàng) chủ binh thần bảo (đại thần quí chủ về binh bị). Đoạn văn này nói về đức Bổn sư, thì 7 thứ quí báu mà Ngài bỏ là cả 2 loại trên đây (vì nếu Ngài ở đời thì là Luân vương). Nhất là đoạn văn này không những nói về hiện tại của Phật mà còn có ý nói đến sự tu Bồ tát hạnh của Ngài trong nhiều kiếp quá khứ nữa.

 

Ghi Chú (7)

Nguyên văn là tạo tác vô đoan. Các bản chú thích nói vô đoan là vô cùng (không đầu mối nào không làm), là bất chính, là vô lối (có một cách hư vọng). Ý sau hết có nhiều nhất.

 

Ghi Chú (8)

Nguyên ngữ kinh Địa tạng là sinh tâm động niệm toàn là tội lỗi (cử tâm động niệm vô phi thị tội). - Địa tạng, phẩm 7. Đại kinh (Niết bàn) thì nói động chân cất bước không theo giới luật, làm sao không lỗi... nên thấy người làm lành là thấy chư thiên, còn thấy kẻ làm ác là thấy địa ngục đó. (Vạn 129/150a dẫn).

 

Ghi Chú (9)

Đúng nguyên văn thì phải dịch là Tịnh danh (Duy ma cật) ưa chuộng. Tịnh danh là một trong các vị đại bồ tát.

 

Ghi Chú (10)

Phiền não, nghĩa đen là nóng bực. Phiền não bao quát tất cả tâm lý tội lỗi và tâm trí sai lầm.

 

Ghi Chú (11)

7 lậu là thuyết của Hoa nghiêm hiệp luận, 7 sử là thuyết của Lăng nghiêm.

 

Ghi Chú (12)

Sơ hở, nguyên văn là lậu (rỉ lọt), vốn là một trong những cái tên của phiền não.

 

Ghi Chú (13)

Sát nguyên văn thì phải dịch hạch rõ phải trái.

 

Ghi Chú (14)

Nỗi sợ hãi ấy là chết.

 

Ghi Chú (15)

2 chữ cuồng tín trong 2 câu này, chữ thứ nhất nguyên văn là bằng hiệp, dịch sát và rõ là cảm tình và phụ họa; chữ thứ hai nguyên văn là tích bẩm, dịch sát và rõ là vâng mệnh một cách bất thông.

 

Ghi Chú (16)

Giác quán (biết, xét) tân dịch là tầm tứ (tìm, dò).

 

Ghi Chú (17)

Khó chạm là khó đụng chạm đến. Không luyện là không thuần hóa.

 

Ghi Chú (18)

Công kích, nguyên văn là kích thích (đánh đâm). Dịch sát ý nhất là châm biếm, nhưng không đủ nghĩa bằng chữ công kích. Còn tức giận thì nguyên văn là ngận lệ (tàn nhẫn, dữ và bướng) dịch tức giận cho thuận nghĩa.

 

Ghi Chú (19)

Tức là 12 nhân duyên thuận lưu. Đối lại, nếu 12 nhân duyên nghịch lưu, gọi là 12 nhân duyên ngược dòng sinh tử.

 

Ghi Chú (20)

Nghĩa là "không có thành trì bảo vệ, không có lương thiện ở chung, chỉ có trộm lớn cướp nhỏ chiếm cứ đã lâu" (Vạn 129/168b).

 

Ghi Chú (21)

Trích khoa Chẩn tế.

 

Ghi Chú (22)

1. Bản dịch này tham khảo cả bản dịch chưa nhuận sắc của ngài Huyền tráng (Chính 8/851-852) và 2 bản giải của các ngài Khuy cơ, Viên trắc (Chính 33/523-552). 2. Phạn tự của chú này là Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha.

 

 

Ghi Chú (23)

Bất sinh diệt, nguyên văn là vô vi. Đứng lặng trong sáng, nguyên văn là tịch chiếu. Siêu việt tứ cú, tuyệt cả bách phi (xa 4 câu, tuyệt 100 lỗi) là hình dung sự bất tư nghị: không thể nghĩ và bàn bằng những khái niệm đối tỷ của chúng ta.

 

Ghi Chú (24)

Không giới: Vô sắc giới.

 

Ghi Chú (25)

Sổ tức quán, nguyên văn là An na bát na sổ tức. An na bát na: Anapana: hơi thở ra hay vào. Tức là "trì niệm tức", và lịch trình tu có 6 cách mới viên mãn (Câu xá luận, Chính 29/118). Gọi là sổ tức quán, là có lẽ vì sổ (đếm hơi thở) đứng đầu trong 6 cách. Có điều cần ghi nữa, là do sự khảo chứng, A na bát na rất liên hệ với "Lục tự chương cú đà la ni", tức là liên hệ đến việc niệm ngài Quan âm mà trì chú để trừ độc hại (lục tự: 6 chữ, là vì niệm ngài Quan âm mà trì chú thì thoát khổ 6 đường, được 6 diệu môn và chứng công đức của 6 căn, chứ không phải số chữ của chú có 6),lại còn liên hệ đến việc ngài A nan trì chú để trừ chú của Ma đăng già. Tham chiếu Phật học đại từ điển, trang 637d và 638t/g.

 

Ghi Chú (26)

Đúng ra thì phải để bất tịnh quán trước sổ tức quán, và ở đây chỉ thấy nói 2 thứ này (Câu xá luận, Chính 29/118g).

 

Ghi Chú (27)

Cọng với 2 thứ nữa, và thứ tự như sau, gọi là ngũ đình tâm quán: bất tịnh, từ bi, duyên khởi, lục giới, trì tức (Câu xá Quang ký, Phật học đại từ điển trang 555).

 

Ghi Chú (28)

7 phương tiện (hay 7 hiền, 7 da hành). Tôi xin kê thẳng sau đây, theo nguyên văn luận Câu xá (Chính 29/116-121). Muốn đến Kiến đạo vị (giác ngộ tứ đế) trước hết phải giữ giới, rồi văn tư tu chánh pháp thuận với sự kiến đế (kiến đạo). Văn là xét theo văn, tư là xét theo văn và nghĩa, tu là xét theo nghĩa. Đó là giai đoạn 1, tạm gọi là phát tâm muốn được kiến đạo. Qua giai đoạn 2 là thân khí thanh tịnh (sạch sẽ khí cụ kiến đạo là bản thân) gồm có thân tâm đều tách rời, thích đủ và ít muốn, và sống theo 4 giống thánh. Thân tách rời là tách rời sự cư trú hỗn tạp; tâm tách rời là tách rời sự nghĩ bậy. Thích đủ là với đồ dùng đã có không ức vì không tốt không nhiều; ít muốn là với đồ dùng chưa có không mong tốt mong nhiều. Giống thánh là sinh ra các vì Thánh; 4 giống thánh là không ham đồ mặc, đồ ăn và đồ nằm mà lại ham đoạn ác tu thiện (4 thứ này, 3 thứ đầu nhắm bỏ đồ sống thế tục, 1 thứ sau nhắm bỏ sự nghiệp thế tục). Qua giai đoạn tu sửa khí cụ này rồi bước vào giai đoạn tu sửa chính thức, mà 7 phương tiện là phần một, gọi là Da hành vị (còn phần hai gọi là Kiến đạo vị, phần ba gọi là Tu đạo vị). 7 phương tiện là tu bất tịnh quán (nếu tham mạnh) hay trì niệm tức (nếu nghĩ nhiều), 1 trong 2 thứ này thành là thành Xa ma tha (chỉ): đó là một. Rồi để được Tì bát xá na (quán) thì tu tứ niệm xứ bằng 2 cách: Quán riêng 4 thứ thân thọ tâm pháp, là hai. Rồi từ pháp niệm xứ tổng tạp (chung 2 đến 4 niệm xứ mà quán) quán cả 4 thứ đều vô thường, khổ, không, vô ngã (gọi là 4 hành tướng) là ba. Tiếp theo, khởi sự vẫn đặt chân từ pháp niệm xứ, quán tứ đế bằng 16 hành tướng thì tuần tự thành 4 thiện căn "thuận quyết trạch phần" là Noãn (thứ tư) Đảnh (thứ năm) Nhẫn (thứ sáu) và Thế đệ nhất (thứ bảy). Điều cần nói thêm, là trong 4 thứ sau (mà thông thường gọi là 4 Da hành hay 4 thiện căn), đến Noãn và Đảnh thì có thể chuyển chủng tánh Thanh văn thành chủng tánh Bồ tát. Đến Nhẫn thì hết chuyển được, vì Nhẫn không còn thoái đọa ác đạo, mà Bồ tát thì phải vào đó mà lợi tha. Nhưng chủng tánh Độc giác thì cả 3 đều chuyển được. Còn sự đốn ngộ thì chỉ từ đệ tứ thiền, "một ngồi là giác ngộ" (Chính 29/120-121). Xin nhắc lại, muốn rõ hơn những điều lược ghi trên thì đọc xuất xứ trên. Tôi phụ chú điều này hơi nhiều là có nhiều dụng ý, trong đó dụng ý chính là để người sám hối thấy căn bản tu chứng rõ rệt là gì.

 

Ghi Chú (29)

Thế nào gọi là thị tướng và bất thị tướng, chưa thấy ai tìm được xuất xứ, do đó cũng chưa thấy ai giải thích thỏa đáng. Nếu tin vào sự cẩn trọng của ngài Trí chứng, thì "theo pháp mà tu, tám tướng rõ ràng, nên gọi là thị tướng", và"tổng quán các pháp không, không pháp sở đắc, nên gọi là bất thị tướng" (Vạn 129/172b). Nhưng nếu theo ý này thì phải dịch: nổi cái phiền não làm cho chướng ngại công hạnh tu học tám thứ chánh đạo là pháp thị tướng, nổi cái phiền não ... bảy thứ giác chi là bất thị tướng. Phần tôi chỉ xin tồn nghi.

 

Ghi Chú (30)

Thói quen ác nghiệp, nguyên văn dùng chữ kiết tập, là chỉ cho phiền não loại huân tập.

 

Ghi Chú (31)

Dịch sát nguyên văn là làm sạch quốc độ, nhiếp hóa chúng sinh. Nhưng câu này xuất từ nguyên ngữ "tịnh Phật quốc độ thành tựu chúng sinh" trong Pháp hoa, nên dịch như vậy và ý nghĩa vẫn một.

 

Ghi Chú (32)

Nhất xiển đề: dịch âm chữ Phạn Icchantika (kẻ thích sống trong sinh tử). Tội của kẻ nhất xiển đề là ngoài 5 nghịch tội của vô gián ngục, còn phủ nhận nhân quả và phỉ báng Tam bảo. Nên nhất xiển đề là kẻ "ý nghiệp cực ác, bạn ác phụ họa, tà kiến (kiến thức và chủ thuyết tà ngụy) thượng mạn (kiêu ngạo bậc nhất), không sợ ác đạo (địa ngục vân vân) không tâm trắc ẩn (mất hết lương năng)" (Vạn 129/176a). 5 nghịch tội là hại cha, hại mẹ, hại La hán, phá tăng chúng hòa hợp, làm đổ máu thân Phật. 5 thứ này lại còn 2 loại nữa, là 5 nghịch tội riêng của đại thừa và 5 nghịch tội đồng loại. (Tham chiếu Phật học đại từ điển, trang 539-540).

 

Ghi Chú (33)

6 ngày ăn chay hằng tháng: mồng 8, 23; 14, 29 (hoặc 28); rằm, 30 (hoặc 29). 3 tháng ăn chay hằng năm: giêng, năm, chín.

 

Ghi Chú (34)

8 tiết là lập xuân, xuân phân; lập hạ, hạ chí; lập thu, thu phân; lập đông, đông chí.

 

Ghi Chú (35)

Luật ác, nguyên văn là ác luật nghi, đúng nghĩa là giới luật ác, tức nguyện làm ác. Tuân theo kỷ luật ác cũng là loại này. Trái với ác luật nghi là thiện luật nghi, là giới luật Phật chế.

 

Ghi Chú (36)

Đoạn này nguyên văn không rõ, giải thích cũng không thấy được vừa ý. Nguyên văn là"thường lạc diệu trí, bát tự tại ngã". Theo ý ngài Trí chứng (Vạn 129/179a) thì cả 2 câu này chỉ nói về 4 đức thường lạc ngã tịnh: Thường lạc là thường và lạc, Diệu trí là tịnh, Bát tự tại là ngã. Đó là ý kiến xứng đáng nhất. Phần tôi, khi dịch"bốn đức thường lạc" là 4 đức thường lạc ngã tịnh,"bốn thứ diệu trí" và"tám tự tại ngã" là tách ra, dịch cho đủ các đức của Phật. Chú thích: 4 diệu trí là thành sở tác, diệu quán sát, bình đẳng tánh, đại viên cảnh. 8 tự tại ngã dễ nhớ và tra.

Ghi Chú (37)

Xuất xứ: kinh Niết bàn. Trọn lời là "Tất cả đều sợ khí giới gậy gộc, hết thảy các loài đều thích sự sống, tự tha ..." (Vạn 129/179a dẫn). Pháp cú cũng nói như vậy,"Tất cả mọi loài đều sợ chết chóc, ai cũng sợ hãi cái đau gậy gộc, tự tha ..." (Chính 4/565g).

 

Ghi Chú (38)

Thực phẩm khác, các bản chú thích đều nói khác là khác với thịt cá, tức rau trái. Văn khí thì cũng vậy. Nhưng thiển ý thấy tuồng như chỉ cái gọi là 3 thứ tịnh nhục. Ăn thịt con trong thời đói là có lúc và có nơi, khi đói, đã đổi con cho nhau mà ăn. Huống chi ăn ngay thịt cá là ăn thịt cá tức ăn người thân của mình.

 

Ghi Chú (39)

Đặt máy nguyên văn là bát. Có lẽ là bẫy. Dịch là máy, là theo Vạn 129/180b.

 

Ghi Chú (40)

Nhất là dùng đạn, dịch như vậy là theo ý ngài Trí chứng (Vạn 129/180b). Ngài nói rõ đời ngài đạn đã làm bằng đất, đá, chì và sắt. Tôi theo ý ngài, vì đạn là vật mà xưa nay, nhất là nay, là khí giới đi liền với sát sinh nhất. Dẫu rằng, theo nguyên văn, chữ đạn ở đây phải đọc là đàn, đi đôi chữ xạ, chỉ có nghĩa là bắn (bằng cung nỏ). Để bắt để đâm là tôi thêm, tả cho hết cái dụng của những khí giới đã kê.

 

Ghi Chú (41)

Bò, gồm có trâu.

 

Ghi Chú (42)

Mai, nguyên văn là giáp, nghĩa là vỏ. Nhưng tiếng ta nói vỏ ốc, vỏ trai, còn rùa thì lại nói là mai. Vậy phải hiểu mai là cả vỏ nữa.

 

Ghi Chú (43)

Biên giới, nguyên văn là cương dịch (không phải cương trường). Cương là bờ cõi khu lớn. Dịch là bờ cõi khu nhỏ.

 

Ghi Chú (44)

Sát thì câu này chỉ dịch vung mác múa giáo là đủ, nhưng đủ nghĩa đen mà không đủ ý nghĩa.

 

Ghi Chú (45)

Nguyên văn chữ phẩn, ở đây nghĩa là dọn bỏ đi, không phải nghĩa là phân.

 

Ghi Chú (46)

Có chỗ nói rau tươi là thái, rau khô là như (Vạn 129/181b). Nhưng tự điển là rễ. Các thứ củ cũng cùng loại.

 

Ghi Chú (47)

Trong đoạn này, ngoài những ác nghiệp sát sinh quá quắt, có một số vô ý hay không thể tránh, khó tránh. Nhưng mà như thế không phải là vô tội. Thế giới chung của ta và loài vật là thế giới nghiệp quả, là kết quả của ác nghiệp, nên làm khổ lẫn nhau, sống cho được mà tránh cho được tội lỗi là điều không dễ. Nhưng chính điều này cho thấy càng không dễ tránh thì càng phải cố mà tránh.

 

Ghi Chú (48)

Sát thì phải dịch ngựa, lừa, loa, lạc đà.

 

Ghi Chú (49)

Tăng man: dịch âm chữ Phạn. Dịch ý là đối diện thí: hiện tiền đối diện mà cúng dường.

 

Ghi Chú (50)

Chu toàn, nguyên văn là châu triền, ngài Trí chứng nói chiều chuộng bảo toàn (Vạn 129/184a) ngài Đế nhàn nói thân thiện vãng lai (Đn 10/1135).

 

Ghi Chú (51)

Lãnh giao hàng hóa, nguyên văn là bác hóa, nghĩa đen là thông thương hàng hóa, chỉ cho những cách làm trung gian trong việc thương mãi mậu dịch.

 

Ghi Chú (52)

Đấu, khuê, cáp: là đồ đong. Phân và thù là đồng cân.

Ghi Chú (53)

4 loài, nguyên văn là tứ sinh. Không rõ tứ sinh ở đây có phải sinh bằng thai, bằng trứng, bằng thấp khí và bằng biến hóa, hay không. Hay chỉ có nghĩa là mọi người mọi vật.

 

Ghi Chú (54)

Đúng ra thì phải gọi là trì tức niệm: nghĩ nhớ về hơi thở. Coi chú thích số 25.

 

Ghi Chú (55)

Nguyên văn là 16 hành quán. Nhưng gọi 16 hành tướng mới đúng (Chính 29/119). Xuất xứ này cũng kể rõ 16 hành tướng ấy. Lại xin coi chú thích số 28.

 

Ghi Chú (56)

Gió xoáy đất linh là tin gió có thần (mới xoáy) và đất có quỉ (mới linh). Ở đây ý nói thần gió thần đất đều đến.

 

Ghi Chú (57)

Đen, đúng ra là đen huyền. Xanh, phải nói là xanh lục. Đỏ, đúng ra là son. Tía, có 2: đỏ tía, tía tím.

 

Ghi Chú (58)

Tiếng căn bản nhất, nguyên văn là cung. Tiếng trong thanh nhất, nguyên văn là thương. Căn cứ để dịch: Vạn 129/189a. Đó là 2 tiếng đại diện cho tất cả âm thanh của nhạc.

 

Ghi Chú (59)

Cơ thể, nguyên văn là tứ đại. Tứ đại là thân. Tứ đại, hay tứ đại chủng, có 2 loại. Loại thế tục (theo sự biết phổ thông, không chính xác) là đất nước gió lửa ta thường nói. Loại thắng nghĩa (nghĩa chính) là kiên (cố thể: thể cứng) thấp (dịch thể: thể lỏng) noãn (nhiệt lực: sức nóng) động (động lực: sức động).

 

Ghi Chú (60)

Hai tướng, nguyên văn là nhị tướng. Nhị tướng, nghĩa đen nói hai tướng có lẽ không đúng bằng nói tướng hai. Thông thường cắt nghĩa nhị tướng là có + không, vân vân. Thật ra nhị tướng chính là khái niệm (tướng) mà thực chất là phân biệt đối chiếu (nhị). Tôi nói cái này là ngòi bút, thì cùng lúc đã có nghĩa tất cả cái khác không là ngòi bút ấy: như vậy là nhị tướng. Nói có, có nghĩa không phải có. Nói không cũng vậy. Nói một, có nghĩa không phải một. Nói hai cũng vậy. Hãy nhớ và tìm hiểu đoạn văn "hễ có là Văn thù thì tất có không là Văn thù, trong khi Văn thù thật Văn thù, không phải là và không là" của kinh Lăng nghiêm thì rõ. Do đó, bất nhị tướng là siêu việt khái niệm phân biệt đối chiếu ấy.

 

Ghi Chú (61)

Đầu trục là vì xưa, kinh viết rồi cuốn lại như bức tranh (nhưng ngắn và viết ngang). Nay đổi ra sách thì đầu trục thay bằng bìa: đầu trục hỏng là bìa hỏng.

 

Ghi Chú (62)

Nguyên văn vãn thoát lậu ngộ, nghĩa đen là kéo, rơi, sót, lầm, toàn là nói sự lấy bất cẩn. Nhưng ngài Trí chứng nói thêm, sót và lầm cũng còn có thể viết sót và lầm (Vạn 129/192b).

 

Ghi Chú (63)

5 pháp, có 2 thuyết: 1 của ngài Trí chứng, coi Vạn 129/194a; 1 của ngài Đế nhàn, coi Đn 10/1179.

 

Ghi Chú (64)

Đủ và sát thì phải dịch: lụa quí, tơ màu, mọi thứ châu báu, chuỗi ngọc, trăm ngàn nhạc khí và âm nhạc, hương quí, lạ và nổi tiếng, hoa trái tươi tốt, cùng tận thế gian, đồ gì quí nhất thường đem cúng dường.

 

Ghi Chú (65)

Ăn sống thịt cá, nguyên văn là sinh cầm. Tự điển thì cầm là nem: sinh cầm là nem sống. Cầm cũng có nghĩa thịt thái nhỏ. Dịch ăn sống thịt cá (ăn gỏi) là theo ngài Đế nhàn.

 

Ghi Chú (66)

Sát nguyên văn thì phải dịch xuất ra thu vào đều tính lợi tức, tính giờ tính ngày (chứ không phải chỉ tính tháng, trội ít ngày cũng không kể). Ngài Đế nhàn lại nói cho mượn một buổi tính bằng một ngày.

 

Ghi Chú (67)

Duyên lành, (thiện duyên) là những yếu tố tốt. Trong đó, thiện tri thức (hay thiện hữu) là một yếu tố quan trọng, nên có lúc từ ngữ này cũng được dịch là bạn hiền.

 

Ghi Chú (68)

Nguyên văn "phi không phi hải trung, phi nhập sơn thạch gian, vô hữu địa phương sở, thoát chi bất thọ báo", có bản đổi chữ thạch ra chữ thị. Nếu chữ thị thì dịch như đã dịch là được. Nhưng ngài Trí chứng nói cả 2 Tạng mà ngài đối chiếu, đều viết thạch (Vạn 129/197b). Đại tạng kinh cũng viết như vậy (Chính 45/976b). Ngài lại còn kê 4 chỗ là không, bể, núi và đất, và nói bài kệ này dẫn kinh Bà là môn tị tử. Tra cứu thì kinh này là số 131 của Đại tạng (Chính 2/854). Kinh này là dị dịch của kinh số 4 phẩm 31 của Tăng nhất a hàm (Chính 2/688) tại đây kê rõ 4 nơi là bay ở trong không gian, vào tận đáy biển cả, vào trong lòng núi lớn (Tu di sơn), xuống tận đáy đất sâu (Kim cang tế), lại còn nói thay vì trốn mà không khỏi cái chết ở 4 nơi ấy, hãy tư duy tu 4 pháp sau đây thì thoát chết: vô thường, khổ, vô ngã, niết bàn. Nhưng trong kinh Pháp cú có đến 2 chỗ nói về lời này: Chỗ thứ 1 nói"phi không phi hải trung, phi nhập sơn thạch gian, vô hữu địa phương sở, thoát chi bất thọ tử" (Chính 4/559g). Chỗ thứ 2 nói"phi không phi hải trung, phi ẩn sơn thạch gian, mạc năng ư thử xứ, tị miễn túc ác ương" (Chính 4/565t). Pháp cú thí dụ kể trường hợp của 2 lời này. Trường hợp thứ 1 là 4 anh em Phạn chí có thần thông, bàn nhau kẻ vào bể cả, kẻ vào núi tu di, kẻ ẩn mình trong hư không, kẻ lẫn mình trong chợ lớn, để trốn tử thần, nhưng đã không trốn khỏi (Chính 4/567). Trường hợp thứ 2 là ngài Mục liên dùng thần lực cứu người nước Xá di, mong khỏi sự báo thù của Lưu ly vương, mà cũng không khỏi được (Chính 4/590). Có lẽ xuất xứ Pháp cú thí dụ mới là nguyên văn mà Thủy sám trích dẫn, và viết thạch đúng hơn thị, nhưng ý và việc lại thiếu, nên có lẽ chính tác giả Thủy sám đã đổi thạch ra thị. Vì cuối cùng đã đổi tử ra báo (cho ăn với chỗ này nói về khổ báo), lại thêm 1 câu đầu (không phải chỉnh cú) và 2 câu cuối (chỉnh cú, để nói luôn về sức mạnh sám hối, rất thuận văn khí).

 

Ghi Chú (69)

Câu này cũng có thể dịch... đã dự bị trước mà chờ đợi ta ...

 

Ghi Chú (70)

5 thiên sưắ, ngài Trí chứng dẫn luận Bà sa mà nói (Vạn 129/198a), đáng chú ý hơn lời giải thích của ngài Đế nhàn. Nhưng thông thường thì 5 thiên sứ là sinh, lão, bịnh, tử và vương pháp (tức luật pháp). 5 thứ này được Diêm vương gọi là thiên sứ, đem hỏi tội nhân mới đọa địa ngục, có mục kích không: đã mục kích mà không cảnh giác tu hành thì phải trị. Bản kinh nói về việc này đề là Diêm la vương ngũ thiên sứ giả, mang số 43 (Chính 1/828). Tăng nhất a hàm, kinh này là số 4, phẩm 32 (Chính 2/674), nhưng rõ nhất là Trung a hàm, số 64 (Chính 1/503). Đoạn văn trên đây, theo ngu ý, nói đến 2 sự vô thường. Vô thường có 2: 1. biến đổi luôn, gọi là sát na vô thường (sinh lão bịnh tử chỉ là biểu lộ rõ rệt của sự vô thường này); 2. biến đổi hẳn, gọi là nhất kỳ vô thường (tức là chết, nghĩa là sinh, nếu còn nghiệp). Quỉ sát nhân vô thường là chết, tức nhất kỳ vô thường, nên vô thường cũng gọi là chết.

 

Ghi Chú (71)

Rõ và đúng thì phải dịch "những đồ trang sức quí giá bằng bảy thứ trân bảo,thì thành ra đồ thưởng ngoạn của kẻ khác".

 

Ghi Chú (72)

Nguyên văn thiết ma, nghĩa là sắt mài. Những chữ ma một âm là má, là cối xay bằng đá. Thiết ma nên đọc thiết má: cối xay bằng sắt. Đọc thiết ma và dịch sắt mài cũng không trái nghĩa.

 

Ghi Chú (73)

Giây đen (hắc thằng) là trước dùng giây đen đo lường các bộ phận của cơ thể rồi chặt cưa (Câu xá luận cuốn 8, coi Phật học đại từ điển trang 1066d). Ngài Trí chứng nói loại như cực hình phân thây của thế gian (Vạn 129/200a).

 

Ghi Chú (74)

Câu này không rõ: tội nhân làm thân cầm thú mà hại nhau?

 

Ghi Chú (75)

Bị thui, nguyên văn là bào, chính nghĩa là bọc lại mà nướng.

 

Ghi Chú (76)

Họp chung (chúng họp) là nhiều hình cụ xúm lại mà hại (Câu xá luận cuốn 8, coi Phật học đại từ điển trang 1066d). Tai đen (hắc nhĩ),"là nhiều hình cụ họp chung, không hở một chút, nên tai mắt đều đen tối", đó là lời giải thích của ngài Trí chứng (Vạn 129/200a).

 

Ghi Chú (77)

Nóng bức oán kêu, nguyên văn là phiền oan. Ngài Trí chứng nói phiền là nhiều, oan là ức (Chính 129/200b). Nếu theo ý kiến này thì phải dịch lắm điều oan ức. Nhưng ngài Trí chứng lại nói nóng cháy (tiêu nhiệt) là viêm nhiệt địa ngục, kêu gào (khiếu hoán) là hào khiếu và đại khiếu địa ngục (Chính 129/200ab). Căn cứ vào đó mà tra (Câu xá luận cuốn 8, Phật học đại từ điển trang 1066d) thì viêm nhiệt là lửa theo mình bốc lên, bùng cháy khắp cả, nóng không chịu nổi; hào khiếu là đau quá mà phát ra tiếng thét gào oán kêu (oán, không phải oan). Như vậy, phiền oan (oán?) phải dịch nóng bức oán kêu.

 

Ghi Chú (78)

Là 4 trong 8 địa ngục cực lạnh, và là dịch âm của kinh Niết bàn cuốn 11, nhưng thứ tự là a ba ba, a tra tra, a la la, a bà bà. Mới đọc, thấy như tất cả đều hình dung những tiếng phát ra vì lạnh. Nhưng đúng ra thì trong 8 địa ngục cực lạnh, chỉ 3 thứ giữa mới là những cái tên hình dung những tiếng phát ra vì lạnh: thứ 3, a la la: atata; thứ 4, a bà bà: apapa; thứ 5, hầu hầu: hahadhara (dịch âm của ngài La thập, Trí độ luận cuốn 16, coi Phật học đại từ điển trang 1067tg).

 

Ghi Chú (79)

Nguyên văn là vô thượng đạo tâm. Đạo: bồ đề (tuệ giác). Đúng thì phải dịch tâm chí mong cầu tuệ giác vô thượng (vô thượng bồ đề: vô thượng đạo).

 

Ghi Chú (80)

Rõ thì câu này phải dịch mình có nhiều lông, nhiều lông cánh, nhiều vảy, có mai (hay vỏ), bị các loài trùng nhỏ xúm lại rúc vào rứt rỉa mà ăn. Chữ siệp (đọc tiệp thì nghĩa khác) tả 2 dáng: xúm ăn và rứt ăn.

 

Ghi Chú (81)

Rõ thì phải dịch "ăn sống máu thịt, chịu thân xấu xí".

 

Ghi Chú (82)

Rõ thì phải dịch "diệt trừ nhơ bẩn của sự ngu si".

 

Ghi Chú (83)

Được ngồi bồ đề tràng (đạo tràng) nghĩa là được thành Phật.

 

Ghi Chú (84)

Nguyên văn nhiều bản không có chữ sở trí. Đại tạng kinh cũng vậy (Chính45/987t). Có chữ đó thì có nghĩa"nguyên nhân là vì dư báo", không thì có nghĩa "chính đó là dư báo". Nghĩa sau đúnghơn.

 

Ghi Chú (85)

Họa thừa oán cũ, nguyên văn là lưu ương túc đối. Dịch như vậy là theo ý ngài Trí chứng (Vạn 129/2036). Ý này đáng theo hơn cả. Và theo ý này thì tai họa và oán thù mà hiện tại tuy không gây nhưng vẫn bị, là dư báo.

 

Ghi Chú (86)

Nguyên văn "canh tương la nhiễm, canh tương vu báng". La, nghĩa đen là bị, cũng có nghĩa là lưới, võng. Nhiễm, ở đây nghĩa là lây, hay nhuốm bẩn. Vậy canh tương la nhiễm có thể dịch làm bị họa lây với nhau, cũng có thể dịch bao vây và vấy bẩn lẫn nhau (ý này của ngài Trí chứng, Vạn 129/204a). Còn canh tương vu báng là vu cáo và phỉ báng lẫn nhau. Ấy là dịch cho sát và rõ. Và như thế là tả cái thế giới miệng lưỡi của loài người.

 

Ghi Chú (87)

Nguyên văn "đông ôn hạ dịch, độc lệ thương hàn". Ôn dịch là những bịnh truyền nhiễm. Đông, hạ, là nói những bịnh trên đây là do thời khí. Còn lệ thì ngoài nghĩa sốt rét, còn có nghĩa là hủi, lở.

 

Ghi Chú (88)

Sát thì phải dịch "chim kêu báo hiệu cả trăm việc kỳ quái, thây chết nhảy đựng, ma quỉ lếu láo, ngụy tạo những trò yêu dị".

 

Ghi Chú (89)

Sấu là tôi thêm. Nhưng nguyên văn sau cọp còn nói beo, lang sói.

 

Ghi Chú (90)

Sát thì phải dịch "y phục cùng những vật dụng để sống".

 

Ghi Chú (91)

Đủ thì phải dịch, "đi lại ra vào, có hoạt động gì thì gặp những người quen xấu tìm cách làm trở ngại".

 

Ghi Chú (92)

Lời nguyện này viết hơi tắt. Nói cho rõ thì phải có 2: Một, nguyện đời này chết rồi thì vãng sinh Cực lạc, sau đó trở lại Ta bà, thấy đức Từ tôn để vừa nghe pháp mà tiến tu thêm, vừa giáo hóa chúng sinh mà hoàn thành đại nguyện. Hai, nếu chưa được vãng sinh Cực lạc ngay sau khi chết, thì nguyện ít ra, tương lai sau nữa cũng được nhìn thấy Từ tôn, nghe pháp mà tiến tu. Lời nguyện này để ngoại lệ những người cầu nguyện đời này chết rồi thì vãng sinh Đâu suất tịnh độ, thấy đức Từ tôn, và sau đó cùng Ngài sinh xuống thế giới này.