Câu Hỏi 81-100

Thứ Sáu, 20 Tháng Năm 201611:35 CH(Xem: 3593)
Câu Hỏi 81-100
100 CÂU HỎI PHẬT PHÁP
Thích Phước Thái

81. Bệnh tật và pháp tu thích hợp

Hỏi: Kính thưa thầy, con là một Phật tử tuổi đã cao, lại thêm mang nhiều bệnh, đôi chân rất yếu, không thể đứng hoặc quỳ lâu, nhất là bệnh cao máu không thể lạy xuống đứng lên được. Mỗi khi tụng niệm con không thể lạy và quỳ như trước kia, vậy con phải làm sao cho đúng pháp? và tu pháp nào mới được thích hợp?

Đáp: Qua câu hỏi trên, tôi rất hiểu và thông cảm cho bệnh tình của Phật tử. Bệnh là một trong bốn nỗi thống khổ lớn của con người. Đối với những người trọng tuổi, không sao tránh khỏi bệnh đau. Tùy nhân duyên nghiệp quả của mỗi người mà có những chứng bệnh nặng nhẹ khác nhau. Trường hợp của Phật tử, vì tuổi già đau yếu, không thể lạy, quỳ hay đứng lâu được, thì Phật tử có thể ngồi chuyên tâm niệm Phật. Nếu khi ngồi lâu cảm thấy mệt mỏi tê chân, thì Phật tử cũng có thể đứng lên đi kinh hành niệm Phật. Khi dụng công tu hành ta không nên quá cố chấp nặng vào hình thức. Tùy theo sức khỏe hoặc tuổi tác mà ta khéo léo linh động thay đổi ứng dụng công phu hành trì cho thích hợp. Nếu Phật tử không lạy hay không quỳ được cũng không có sao. Bởi việc nầy ngoài ý muốn của Phật tử. Phật tử cũng đừng có ái ngại hay sợ lỗi lầm chi cả. Phật tử nên biết rằng, hình thức lễ nghi bên ngoài chỉ là phần phụ thuộc trợ duyên giúp cho tâm mình bớt buông lung phóng túng đó thôi. Nhưng điều quan trọng là ở nơi cái tâm của mình. Khi tu, làm sao cho thân và tâm của mình được tươi mát, thoải mái, an lạc là tu đúng. Ngược lại, thân thì chao động bất an, còn tâm thì luôn luôn thất niệm vọng tưởng nghĩ nhớ lăng xăng, như thế là đã tu sai lệch rồi. Vì cả thân tâm đều trạo cử. Nếu thế, ta nên điều chỉnh lại. Dù  không thể đứng lạy hay quỳ lạy Phật được, Phật tử chỉ ngồi niệm Phật giữ cho thân tâm được an định, thế là quá tốt rồi. Mục đích của sự tu hành là tâm phải an định sáng suốt, chớ không phải hạn cuộc vào những hình thức lễ nghi đứng hay quỳ. Do đó, trong khi hạ thủ công phu ta không nên quá chú trọng vào hình thức, mà cần phải uyển chuyển linh động tùy nghi cho thích hợp.


Phật tử hỏi: "Tu pháp nào mới được thích hợp?" Theo lời Phật Tổ dạy, đối với căn cơ của chúng sinh trong thời mạt pháp, thì không có pháp môn nào thù thắng vi diệu hơn là pháp môn niệm Phật. Trong trường hợp của Phật tử, theo tôi, thì Phật tử nên chọn tu pháp môn niệm Phật là thích hợp nhứt. Bởi hiện nay tuổi của Phật tử đã cao lại thêm có nhiều căn bệnh, sức khỏe yếu kém, không được tốt lắm, như thế, chỉ có cách niệm Phật là tốt cho Phật tử đó thôi. Tuy nhiên, ngoài việc lấy niệm Phật làm chánh hạnh, Phật tử cũng có thể thực hành những hạnh lành khác như: tụng kinh, bố thí, cúng dường v.v...

Xin nhắc lại cho Phật tử nhớ, khi niệm Phật, Phật tử không cần phải đứng hay quỳ, mà chỉ cần ngồi yên niệm Phật là được rồi.  Niệm Phật không luận thời gian và nơi chốn. Nơi nào và ở đâu Phật tử cũng có thể niệm Phật được cả. Chỉ ngoại trừ, những lúc Phật tử nằm ngủ nghỉ hay những chỗ bất tịnh như cầu xí, những nơi đó Phật tử chỉ cần niệm Phật thầm mà thôi. Nếu niệm ra tiếng, thì sẽ bị mang tội thất kính. Như vậy, chỉ có pháp tu niệm Phật là dễ nhứt để cho Phật tử tiện bề ứng dụng hành trì. Nói dễ là vì nó không đòi hỏi phần tự lực nhiều như những pháp tu khác. Bởi pháp môn niệm Phật ngoài phần tự lực ra còn có phần tha lực tiếp sức của đức Phật A Di Đà qua 48 lời đại nguyện của Ngài. Đồng thời theo pháp môn nầy, còn có phần đới nghiệp vãng sanh. Thế nên, tôi thành thật khuyên Phật tử nên chọn pháp môn niệm Phật để tu. Tuy nhiên, điều nầy còn tùy theo căn duyên sở thích của mỗi người mà chọn lựa. Sự chọn lựa nào cũng đòi hỏi hành giả phải có chánh kiến để trạch pháp cho đúng theo nguyện vọng của mình.

Kính chúc Phật tử luôn được dồi dào sức khỏe tinh tấn niệm Phật chóng đạt thành sở nguyện.


82. Ý nghĩa chuông mõ và cách thức sử dụng như thế nào?


Hỏi:
Kính bạch thầy, con thấy chùa nào cũng có chuông mõ và ngay cả ở tư gia của một số Phật tử mà con có dịp tới lui tiếp xúc qua, cũng đều có chuông mõ. Thế nhưng, con chưa hiểu rõ nguồn gốc xuất xứ cũng như ý nghĩa chuông mõ là gì? và cách thức sử dụng vô chuông mõ như thế nào? Người đánh chuông và mõ phải giữ như thế nào mới đúng? Kính mong thầy giải thích cho con hiểu.


Đáp:
Chuông là một trong những loại pháp khí có từ thời Phật. Trong Kinh A Hàm, quyển 24 Đức Phật bảo Ngài A Nan đánh chuông lên để tập họp chúng. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm ở phần "Kích Chung Nghiệm Thường", Phật sai La hầu la đánh chuông để chứng nghiệm tánh nghe cho Ngài A Nan.

 

Chuông có nhiều loại, nhưng xưa nay có 3 loại chuông thường được sử dụng trong thiền môn:

 

a. Hồng Chung: cũng còn gọi là Phạn chung, Hoa chung, Cự chung và Đại chung. Chuông nầy thường dùng trong các thời khóa: công phu khuya, chuông trống Bát nhã và trong các đại trai đàn chẩn tế, thường gọi là chuông U Minh.

 

b. Chuông Bảo Chúng: cũng còn gọi là Hoán chung, Tiểu chung, Bán chung. Chuông nầy thường dùng để báo chúng trong các trường hợp như: Chỉ tịnh, Thức chúng, Họp chúng, Chấp tác, Nghe pháp, Học tập v.v...

 

c. Chuông Gia Trì: chuông nầy thường đặt song song với mõ ở chánh điện trước bàn Phật để sử dụng nó với mõ tụng kinh hằng ngày. Công dụng của chuông nầy nhằm mục đích cảnh tỉnh thức nhắc và báo hiệu cho đại chúng biết để thúc liễm tam nghiệp trước và trong khi hành lễ. Người đánh chuông gọi là Duy na. Nghĩa là phải biết cách thức sử dụng chuông để điều khiển buổi lễ cho đúng cách hợp pháp.

 

Mõ cũng là một trong các loại pháp khí đã có từ lâu đời. Theo sách sử ghi lại, thì mõ có lẽ xuất xứ từ thời đại Nhà Đường ở Trung Quốc. Đó là người ta dựa vào trong bộ sách "Sắc Tu Thanh Quy Pháp Khí" ở chương Mộc Ngư nói về cái mõ tạc hình con cá.

 

Có hai loại mõ mà trong thiền môn thường dùng:

 

a. Mõ có hình bầu dục, tức hình tròn như vảy cá: Loại nầy thường được dùng trong các thời khóa lễ sớm tối có đông người tụng niệm với mục đích là để cho mọi người tụng nhịp nhàng theo trường canh của tiếng mõ. Người đánh mõ gọi là duyệt chúng. Nghĩa là làm cho mọi người được hoan hỷ vui vẻ.

 

b. Mõ có hình điếu, tức hình con cá dựng đứng hoặc treo: Loại mõ nầy thường được treo ở nhà trù để báo hiệu khi thọ trai hay chấp tác. Ngoài ra, cũng có một loại mõ rất nhỏ để đại chúng đi kinh hành gọi là nhiễu Phật.

 

Về kích thước của mõ thì lớn nhỏ không đồng, nhưng loại nào cũng có tạc hình con cá, vì loài cá luôn thức không bao giờ ngủ với dụng ý là để cảnh tỉnh thức nhắc mọi người gắng công tu tập không nên ngủ nhiều.

 

Đó là vài nét khái quát về nguồn gốc xuất xứ và các loại chuông mõ. Còn về ý nghĩa và cách thức sử dụng của chuông mõ thì, ý nghĩa của hai loại pháp khí nầy nó có công năng cảnh tỉnh nhắc nhở mọi người luôn phải tỉnh thức gìn giữ chánh niệm. Nhất là phải thu nhiếp ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý cho thanh tịnh trước và trong khi hành lễ. Một buổi hành lễ được trang nghiêm thanh tịnh là do mỗi cá nhân khéo biết tự điều chỉnh từ nội dung đến hình thức. Nội dung là thuộc về tâm thức, hành giả phải hết sức chú ý theo dõi lời kinh tiếng kệ, không để tâm phóng dật theo ngoại cảnh. Hình thức là phải giữ gìn ba oai nghi: đi, đứng và ngồi cho thật trang nghiêm tề chỉnh. Và phải để tâm nghe theo sự cảnh báo của tiếng chuông và nhịp mõ.

 

Cách thức sử dụng vô chuông mõ:

a. Trước đánh 3 tiếng chuông và tiếp theo là ba tiếng mõ gọi là: tiên khởi tam.

b. Tiếp theo là 3 tiếng chuông và 3 tiếng mõ giữ khoảng cách đều nhau không nhặt không khoan.

c. Kế tiếp là 4 tiếng mõ (2 tiếng giữa nhặt và tiếng sau lơi ra) gọi là dứt tứ. Đó là ý nghĩa "vô tam ra tứ".

 

Trước khi thỉnh chuông, người duy na chập nhẹ vào miệng chuông hai tiếng. Hai tiếng chập nhẹ nầy có ý nghĩa là để cảnh báo cho đại chúng biết, đã đến giờ hành lễ xin mọi người hãy chú tâm theo dõi, lập tức hãy trở về với hơi thở chánh niệm.

 

Còn 3 tiếng chuông và 3 tiếng mõ đầu ý nói, chúng sanh do ba nghiệp thân khẩu ý tạo tác mọi điều ác, sau sẽ đọa vào trong ba đường dữ: Địa ngục, Ngạ quỷ, và Súc sanh. Cũng có nghĩa là trừ Ba độc (tham, sân, si) để được Ba đức: Pháp thân, Bát nhã và Giải thoát đức.

 

Tóm lại, 3 tiếng chuông ý nói phải dừng ba nghiệp. Còn 3 tiếng mõ ý nói, khi dừng ba nghiệp thì không còn bị đọa lạc vào Ba đường dữ (tam đồ). Hoặc là trừ Ba độc thì sẽ được Ba đức.

 

 Còn đánh ba tiếng chuông và ba tiếng mõ xen nhau nó có ý nghĩa là: 3 tiếng chuông ý nói, hành giả phải Phát nguyện tu ở nơi Tam học (giới, định, huệ) và 3 tiếng mõ ý nói, quyết chứng cho được Tam thừa (Thanh văn, Duyên Giác và Bồ tát).

 

Sau cùng dứt Tứ (4 tiếng mõ cóc...cóc cóc...cóc) là ý nói nhờ tu pháp Tứ Đế mà dứt được 4 tướng sanh, lão, bệnh, tử để chuyển thành Tứ trí (chuyển năm thức trước thành Thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy thành Bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí).

 

Cách thức vô chuông mõ:

 

Chập chập - Boong... boong ...boong

 - Cóc cóc...cóc.

 - Boong.......cóc... boong......cóc.......boong......cóc

 - Cóc... cóc cóc.....cóc.

-  Chập ( nhẹ vào miệng chuông )

 

Trong khi thỉnh chuông, người Duy na cần phải tuân hành một số quy tắc như sau:

 

a.  Phần duy na (người thỉnh chuông)

 

- Khi đứng gần bên chuông phải giữ thân cho ngay thẳng và tâm phải giữ thành kính nghiêm trang.

- Cầm dùi chuông không nên nắm chặt lắm, hơi lỏng ra một chút.

- Chập 2 tiếng vào miệng chuông đều và nhẹ.

- Nên đánh vào bên cạnh miệng chuông (không mạnh không nhẹ) không được ở trên đánh xuống. Như thế âm thanh chát chúa và khó nghe.

- Thỉnh thoảng mới thỉnh tiếng chuông không nên thỉnh chuông thường trong một bài kinh đang tụng.

- Phải chú ý theo dõi bài kinh đang tụng để thỉnh chuông cho đúng lúc. Thí dụ: như tụng: Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ tát, đến gần cuối câu thứ 3 mới thỉnh tiếng chuông để báo cho đại chúng biết mà ngưng lại.

- Không nên đánh chuông nhiều lần trong một bài nguyện hương hay tán Phật v.v...

 

b. Phần duyệt chúng (người đánh mõ)

 

- Khi đứng bên mõ thân và tâm phải nghiêm trang, không nên lụp chụp thô tháo.

- Đánh mõ giữ trường canh tiền bần hậu phú (trước chậm sau nhanh)

- Không nên đánh mõ thụt lùi gây cho đại chúng khó tụng và mệt mỏi.

- Nên giữ trường canh tiếng mõ đều đặn không nên đánh nhanh quá hoặc chậm  

  quá.

- Không nên đánh lớn tiếng và cũng không nhỏ quá.

 

c. Phần đại chúng:

 

- Phải lắng nghe và tụng theo tiếng mõ.

- Không được tụng lớn áp tiếng đại chúng.

- Phải giữ hòa âm với nhau.

- Lắng nghe âm thanh tiếng chuông để biết dừng lại.

- Khi nghe tiếng chuông phải tập trung tâm ý giữ chánh niệm.

- Đi, đứng, ngồi phải giữ thành kính nghiêm trang.

 

Tóm lại, lễ nghi nếu khéo biết ứng dụng cho đúng cách và giọng tụng phải nhịp nhàng với nhau, hòa âm không cao không thấp, nhất là phần oai nghi phải giữ cho trang nghiêm tề chỉnh, có thế thì không những lợi lạc cho bản thân mình mà còn cảm hóa đem lại sự an vui cho người khác. Đó là những điều mà người hành lễ cần phải trang trọng cẩn thận giữ gìn.

 

83. Ý nghĩa thọ bát Quan trai

 

Hỏi: Kính thưa thầy, con là một Phật tử đã thường đi chùa và thường thọ bát, nhưng con chưa hiểu rõ duyên khởi và ý nghĩa của việc thọ bát như thế nào? Và sự lợi ích của việc thọ bát ra sao? Kính mong thầy giải thích cho con rõ.

 

Đáp: Thọ bát là nói tắt, nếu nói cho đủ thì phải nói là thọ Bát quan trai giới. Bát quan trai giới tiếng Pàli Uposatha Sila, Hán dịch là Cận trú giới, Cộng trú giới, Bát giới, Thiện trú giới. Pháp tu nầy có từ thời đức Phật còn tại thế. Nếu chiết tự giải thích thì: Thọ là nhận chịu, Trì là gìn giữ, Bát là tám, Quan là cánh cửa, Trai là thanh đạm tinh khiết.

Nguyên cụm từ nầy nó có nghĩa là: "Nhận lãnh và gìn giữ tám giới như đóng tám cánh cửa tội lỗi để cho tâm trí hành giả được thanh khiết an tịnh".

 

Đây là pháp tu mà Phật chế ra cho người cư sĩ Phật tử tại gia hành trì tu tập theo pháp hạnh của người xuất gia. Vì người Phật tử tại gia phần nhiều đều bị duyên trần ràng buộc nên chưa có thể xuất gia thực thụ được. Cho nên Phật chế ra pháp tu nầy để cho người Phật tử tại gia tiện bề hành trì. Pháp tu nầy thời gian tuy ngắn chỉ có một ngày một đêm thôi, nhưng công đức rất lớn.

 

Theo sử ghi lại, duyên khởi của việc tu tập Bát quan trai giới là do sự phát nguyện của nữ cư sĩ Phật tử Visakha. "Trong Kinh Tăng Chi Bộ 1, lúc Phật trú ở thành Savatthi, tại Pubbarama, nữ cư sĩ Visakha trong ngày Bố tát đi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Đức Phật hỏi nữ cư sĩ có duyên sự gì mà đến tu viện sớm như vậy? Nữ cư sĩ thưa rằng: Bạch đức Thế Tôn, hôm nay con thọ trì trai giới.

 

Nhận lời thưa của nữ cư sĩ, Thế Tôn nói về ba loại trai giới: trai giới của người chăn bò, trai giới của Nigantha (phái lỏa thể) và trai giới của bậc Thánh.

 

Này Visakha, thế nào là trai giới của người chăn bò? Ví như kẻ chăn bò, buổi chiều lùa bò về cho chủ, suy nghĩ rằng: "Hôm nay các con bò đã ăn cỏ và uống nước ở chỗ nầy. Ngày mai sẽ ăn cỏ và uống nước ở chỗ kia". Cũng vậy, này Visakha, có người giữ trai giới mà suy nghĩ: "Hôm nay ta đã ăn loại thức ăn cứng và mềm nầy. Ngày mai, ta sẽ ăn các loại thức ăn cứng và mềm kia". Như vậy, người ấy suốt cả ngày sống đồng hành với tâm tham dục, chẳng khác nào suy nghĩ của người giữ bò nên gọi trai giới của người ấy là trai giới của người chăn bò.

 

Này Visakha, trong ngày trai giới, các tu sĩ của phái Niganthà khuyến khích các đệ tử của họ như sau: "Này các ngươi, hãy quăng bỏ tất cả quần áo và nói như sau: Ta không có bất cứ vật gì, bất cứ chỗ nào, bất cứ ở đâu. Bất cứ vật gì, bất cứ chỗ nào không có cái gì là của ta. Được sống và thực hành như vậy, này Visakha, trai giới của các Niganthà không có quả lớn, không có lợi ích lớn".

 

Và này Visakha, "trai giới của bậc Thánh làm thanh tịnh nội tâm uế nhiễm với phương pháp thích nghi. Trong ngày trai giới, vị Thánh đệ tử niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên. Nhờ niệm Phật, niệm Pháp, Niệm Tăng, niệm Giới... mà tâm phát sinh niệm thanh tịnh, các cấu uế phiền não nơi tự tâm lắng xuống và bị đoạn tận".

 

Nhân đó Phật nêu rõ cách hành trì của tám giới: Không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không ăn phi thời, không ca hát và xem nghe cùng xoa ướp dầu thơm vào mình, không nằm giường cao tốt rộng lớn. Và Phật nói tiếp: Ta cũng từ bỏ tất cả những thứ đó và giữ gìn Thánh trai giới, vì Thánh trai giới có quả báo lớn và có ích lợi lớn, đưa người trai giới đi đến quả Thánh".

 

Đó là duyên khởi nguyên nhân mà Phật chế ra Bát quan trai giới cho người Phật tử tại gia hành trì được truyền trì cho đến ngày nay. Muốn thọ trì Bát quan trai giới, trước hết là người thọ phải là người đã thọ Tam quy và Ngũ giới, có đủ tư cách của một người Phật tử tại gia. Theo pháp thức thọ giới Bát quan trai phải thỉnh một vị Tăng hoặc Ni để làm Giới sư truyền giới. Người truyền giới ngồi trên cao và người nhận giới quỳ để nhận lãnh. Giới tử không được ngồi ngang hàng với Giới sư. Theo luật Phật chế là Phật tử đến chùa thọ giới tu tập trong một ngày đêm. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh và thời gian sinh sống của người Phật tử tại gia ở mỗi nơi mỗi khác, nên việc thọ giới Bát quan trai không còn cố định một ngày một đêm như xưa. Hiện nay các chùa ở hải ngoại, đa số Phật tử đến chùa chỉ thọ trong một ngày chủ nhật từ sáng tới chiều mà thôi.

 

Thời gian tu tập tuy ngắn mà công đức rất lớn không thể nghĩ bàn. Như trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới Phật dạy cho Sujata về công đức của người thọ trì Bát quan trai giới, tất cả mọi tội ác đều tiêu diệt, chỉ ngoại trừ tội ngũ nghịch. Người nào thật hành hạnh tu tập nầy thì công đức của người đó sẽ được niềm vui vô lượng của cõi trời và cõi người vậy.

 

84. Ý nghĩa ba lạy đầu và ba lạy cuối trong thời khóa lễ tụng niệm như thế nào?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, trong mỗi thời tụng kinh, thường là có ba lạy đầu và khi cuối thời khóa tụng, lại lạy ba lạy nữa. Vậy xin thầy giải thích về ba lạy đầu và ba lạy cuối, tức tam tự quy y cho chúng con được rõ. Thành kính cám ơn thầy.

 

 Đáp: Trong nhà Thiền có câu nói: "Kiến sắc minh tâm". Ý nói, nhân cảnh bên ngoài nhìn lại thấy rõ ở nơi tâm mình. Nương Tam bảo bên ngoài để làm sống dậy Tam bảo tự tâm. Đó là yếu lý tôn chỉ của đạo Phật. Nếu một bề chỉ biết chạy theo bên ngoài để tìm cầu thì, người đó muôn đời vạn kiếp không bao giờ được giác ngộ giải thoát. Nói thế, để Phật tử thấy rằng, ba lạy đầu là hành giả hướng về Tam bảo bên ngoài để thành tâm đảnh lễ. Bởi vì nếu không có Tam bảo bên ngoài thì làm sao mình biết có Tam bảo tự tâm. Nhờ Tam bảo sự tướng đó mà mình mới học hỏi tu hành để được giác ngộ. Cho nên Tam bảo bên ngoài tuy là phần sự tướng nhưng cũng rất quan trọng.

 

Hơn nữa, Phật tử nên biết, đạo Phật chủ trương: "Tánh, Tướng không hai hay Lý, Sự phải viên dung". Nhân tướng để thấy tánh hay nhân sự để hiển lý. Ví như nương sóng để nhận ra nước hay ngược lại cũng thế. Nước và sóng không ly khai mà có được. Đó là lý tương Tức, tương Nhập trong Kinh Hoa Nghiêm. Như nước trong sẵn có trong nước đục. Rời nước đục không có nước trong. Khác nào trong hoa có rác và trong rác có hoa. Dùng tuệ giác quán chiếu sâu sắc chúng ta sẽ thấy rất rõ như thế.

 

Chính vì muốn hiển bày lý "Không Hai" nầy nên chư Tổ soạn thời khóa tụng niệm, vào đầu, chúng ta phải một lòng hướng về mười phương Chư Phật, chư Tôn Pháp, chư Bồ Tát và chư Hiền Thánh Tăng mà chí thành đảnh lễ. Đảnh lễ để cầu oai thần lực Tam bảo chứng minh gia hộ. Tuy nhiên, nếu chỉ có thế thôi, thì rõ ràng là chúng ta mê tín ở nơi sự tướng bên ngoài. Vì thế, nên cuối thời kinh thì có Tam tự quy y. Tam tự quy y là chúng ta trở về nhận lại Phật, Pháp, Tăng ở nơi chính mình. Vì mỗi chúng sanh đều sẵn có đầy đủ đức tính Tam bảo tự tâm. Cho nên, mỗi người cần phải phát triển Tam bảo tự tâm ngày càng lớn mạnh. Có thế thì mới đúng với chánh lý Phật dạy.

 

Nếu rời lìa Tam bảo tự tâm thì chúng ta sẽ bị rơi vào hố sâu tà kiến tội lỗi. Do đó, trong đạo Phật có nói đến phần lễ nghi hình thức hay sự tướng rất nhiều, nhưng cuối cùng cũng phải quy kết về ở nơi tự tâm. Bởi tất cả các pháp đều từ tâm lưu xuất. Câu nói: "Nhứt thiết duy tâm, vạn pháp duy thức" là ý đó. Không có vật gì ngoài tâm ta cả. Các pháp hữu vi được cấu tạo hình thành của lý duyên khởi. Tất cả các pháp đều do duyên sanh, đã do duyên sanh nên tự tánh của nó là "KHÔNG". Nhận được tánh không là thấy được lý duyên khởi. Như vậy, vạn pháp rốt lại cũng không ngoài tự tánh mà có. Bởi thế, nên nói đạo Phật là đạo nội quan. Nội quan là quán chiếu sâu sắc ở nội tâm. Có trở về (một cách nói thôi chớ làm gì có chỗ trở về) nhận lại tự tánh và sống được với thể tánh đó thì gọi là kiến tánh hay chứng đạt chơn lý. Cho nên Tam tự quy rất là quan trọng cho sự tu hành của chúng ta. Hiểu thế thì ta không còn vọng ngoại tìm cầu chấp trước vào sự vật nữa. Đó là hành trình của người tu, dù tu bất cứ pháp môn nào, cuối cùng cũng phải nhận lại kho báo (bảo sở) nhà mình. "Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền".  (Sơ Tổ Trúc Lâm). Trong nhà ai cũng sẵn có của báu, không cần phải đi tìm kiếm bên ngoài. Muốn nhận lại của báu vô giá đó, Tổ chỉ cho chúng ta cách tu là phải "Đối cảnh vô tâm". Vô tâm là không khởi tâm chấp trước dính mắc vào sự vật, nói rõ là sáu trần. Được thế thì nơi nào không phải là Thiền, là Bồ đề. Thế thì, chạm mắt đến đâu là có Bồ đề ở đó vậy.

 

Tóm lại, ba lạy đầu là hướng về Tam bảo bên ngoài để đảnh lễ, và ba lạy cuối của thời khóa tụng niệm là quy hướng về bên trong để nhận lại Tam bảo tự tâm. Có thế, thì mới hiểu được chủ trương đường lối tu tập của đạo Phật tất cả đều quy hướng chú trọng ở nơi tâm. Tâm nói đây là chơn tâm, nói cách khác là tánh thể của muôn loài.

 

85. Ý nghĩa tam tự tánh như thế nào?

 

Hỏi: Trong khi trao đổi với một người bạn về vấn đề Duy Thức Học, ông bạn có thắc mắc hỏi con về Tam tự tánh mà trong Duy Thức đã nói, con có trả lời đại khái, nhưng ông bạn của con không mấy hài lòng, vì cách trả lời của con còn non kém chưa giải thích được rõ, vậy kính xin thầy giải thích thêm về Ba tánh nầy cho chúng con được rõ. Kính cảm niệm ơn thầy.

 

Đáp: Ba tự tánh: Biến kế, Y tha và Viên thành thật tánh là đặc sản của Duy Thức hay Duy Biểu học. Tự tánh là đối tượng của nhận thức. Tự tánh tiếng Phạn là svabhàva, dịch nghĩa là bản chất của chính nó, tiếng Anh là the True Nature, the Self Nature.

 

- Tự tánh đầu tiên là tự tánh biến kế (Parikapita, nature of imaginery construction and discrimination). Theo sự giải thích của Hòa Tthượng Thích Nhất Hạnh: "Tự tánh nầy không phải chính nó tự có mà do vô minh, ngu muội tạo nên. Khi chúng ta buồn, nhìn mặt trăng chúng ta thấy mặt trăng buồn! Tự tánh biến kế là tạo tác của tâm ý. Khi quan niệm thế giới có sinh, có diệt, có thành, có hoại, có một, có nhiều, có đến, có đi ... là tạo tác ra những tính chất mà chính thực tại không có. Chúng ta bị giam hãm trong thế giới vô minh sinh tử, là vì chúng ta đã tạo ra một thế giới mà chúng ta tưởng là thực tại tự thân nhưng kỳ thật chỉ là biến kế chấp". Dựa trên lý giải nầy, hằng ngày chúng ta sống trong ảo giác của tính cố chấp so đo hơn thua, tất cả đều do vọng tưởng mà ra. Khác nào thấy sợi dây luộc nằm giữa đường trong đêm nhá nhem tối, ta lại tưởng lầm là con rắn. Từ nhận thức sai lầm đó, ta mới hốt hoảng sợ hãi. Hiện trạng tâm lý tri giác sai lầm nầy hầu hết chúng ta đều mắc phải. Từ đó, mới có sự tranh chấp đấu đá cấu xé gây ra cảnh chiến tranh tàn sát lẫn nhau. Mọi khổ đau có ra đều do tính biến kế nầy tạo tác cả.

 

Ngược lại với tự tánh biến kế là tự tánh viên thành thật (parinispanna, fulfilled nature). Theo Hòa thượng Nhất Hạnh cho rằng: "Thế giới của tự tánh viên thành thật là thế giới không có sự tạo tác của tâm ý, không có những khái niệm. Tự tánh viên thành thật là tự tánh đích thực của vạn pháp trong đó không có sinh, không có diệt, không có thành, không có hoại, không có một, không có nhiều, không có đến, không có đi..."

 

Đó là một thực thể viên mãn bao trùm pháp giới là bản thể uyên nguyên của vạn pháp. Sống với tự tánh viên thành thật, thì mọi hiện tượng vọng chấp sẽ không còn. Nói cách khác sạch hết vi tế vô minh phiền não, chỉ còn lại một bầu trời tâm thể trong sáng vượt ngoài những phạm trù đối đãi nhị nguyên. Đến đây là bặt dứt tất cả, không còn nói năng suy nghĩ luận bàn đến được. Theo Khởi Tín Luận nói: "Đó là như thật không và như thật bất không". Nói cách khác đó là chân không mà diệu hữu vậy.

 

Tự tánh thứ ba là tự tánh y tha khởi (Paratantra, nature of interdepenđence). Theo sự giải thích của Hòa thượng Nhất Hạnh: "Tha là khác. Y tha là nương vào những cái khác, những hiện tượng khác mà phát khởi. Tự tánh của một bông là một ví dụ của y tha khởi. Hạt giống, mặt trời, đám mây là những điều kiện khác mà bông hoa nương vào để hiện hữu.

 

Y tha khởi là tự tánh của vạn pháp. Nếu biết quán chiếu tánh y tha khởi của vạn sự, vạn vật thì chúng ta có thể chuyển vô minh thành tuệ giác. Quán chiếu tánh y tha ở đây là sử dụng vô thường quán cũng là vô ngã quán và vô ngã quán cũng là nhân duyên quán".

 

Khi nhận ra được tánh y tha (do nương những thứ khác tạo thành) là nhận ra được tánh viên thành thật. Bởi những hiện tượng tâm lý hay vật lý đều hình thành bởi tánh y tha khởi. Nhìn một bông hoa, không phải tự nhiên có ra bông hoa, mà bông hoa được hình thành là do những điều kiện khác không phải là bông hoa kết hợp lại mà thành. Buồn là một hiện tượng tâm lý, nhưng không phải tự nhiên có buồn, quán chiếu sâu vào ta thấy hiện tượng buồn phải do nhiều thứ khác tạo nên hiện trạng tâm lý buồn. Như nghe tin người thân bị tai nạn, tai nạn đó do tài xế bị buồn ngủ, đụng phải xe khác v.v... Nghĩa là do nhiều nhân tố khác gây nên. Khi quán chiếu buồn ta thấy được tánh y tha.  Như vậy buồn là do nhiều thứ không phải buồn gây nên. Do đó, ta kết luận buồn là một trạng thái không thật mà tánh y tha khởi là thật. Quán chiếu sâu như thế ta thấy mọi hiện tượng tâm lý và vật lý đều hư giả không thật.

 

86. Người tu Tịnh nghiệp có bắt buộc phải thọ Tam quy Ngũ giới không?

 

Hỏi: Kính thưa thầy, con chưa có thọ Tam quy và Ngũ giới, nhưng con rất thích niệm Phật, nhưng con không biết sau khi con chết con có được vãng sanh về cảnh giới Tây phương Cực lạc của đức Phật A Di Đà không? Kính xin thầy cho con lời khuyên.

 

Đáp: Xin thưa, Phật tử chớ nên lo điều nầy. Nếu Phật tử chưa có quy y Tam bảo và chưa thọ ngũ giới, nhưng Phật tử rất thích niệm Phật để cầu vãng sanh, điều nầy, theo chư Tổ Liên tông, thì Phật tử vẫn được vãng sanh. Tuy nhiên, Phật tử thích niệm Phật là điều quý tốt, nhưng Phật tử cũng nên tìm hiểu đọc kinh sách nói về pháp môn Tịnh độ để hành trì cho đúng pháp. Niệm Phật thì ai cũng có thể niệm được, vì nó rất đơn giản chỉ có sáu chữ Di Đà, nhưng niệm bằng cách nào cho đúng pháp đó mới là điều khó. Chư Tổ thường dạy, niệm Phật không khó mà khó ở bền lâu, bền lâu không khó mà khó ở nơi nhứt tâm. Niệm Phật cho được nhứt tâm bất loạn, đó là yếu chỉ của tông Tịnh độ. Niệm Phật muốn cho có kết quả tốt, theo lời Phật Tổ dạy không ngoài Ba món tư lương: "Tín, Nguyện, Hạnh". Phật tử phải có niềm tin sâu chắc vững vàng và phải có lòng tha thiết mong muốn được vãng sanh. Tin sâu, nguyện thiết là hai điều kiện tối thiết yếu của người tu pháp môn niệm Phật. Đồng thời Phật tử phải lập chí chuyên tâm niệm Phật, đó là hành chuyên. Điều nầy rải rác trong những câu hỏi trên, chúng tôi cũng có trình bày qua. Điều quan trọng cho việc vãng sanh là Phật tử phải giữ vững lập trường kiên định với pháp môn mà mình đang tu. Dù gặp bất cứ hoàn cảnh khó khăn nghịch cảnh thử thách nào, mình cũng phải cương quyết vượt qua, chỉ thành tâm một lòng niệm Phật cầu vãng sanh mà thôi. Dù Phật tử chưa có Quy y, thọ Ngũ giới mà chí thành niệm Phật như thế thì khi lâm chung Phật tử cũng được vãng sanh về thế giới Cực lạc.  

 

Tuy nhiên, nếu Phật tử còn nghi ngờ về vấn đề nầy, thì tôi thành thật khuyên Phật tử nên quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm thì tốt hơn. Tuy quy y thọ giới không có bắt buộc, nhưng vì sự lợi ích lớn lao cho đời sống tâm linh, nên chúng ta cần nên quy y. Bởi sau khi quy y, thọ giới rồi, Phật tử càng có thêm tín tâm trong sự tu hành. Và nhờ quy y, thọ giới làm động lực trợ duyên giúp cho Phật tử có thêm nhiều lợi lạc trong việc niệm Phật. Nhờ giữ giới nên tâm mình được yên hơn khi niệm Phật. Nếu không, thì rất khó giữ cho tâm được yên ổn lắm. Ví như, khi sáng mình giết hại một con vật nào đó, tối lại ngồi niệm Phật cứ nhớ lại hành động sát sanh đó, thì thử hỏi làm sao tâm mình yên được? Đó là niệm hành động sát sanh chớ đâu phải niệm Phật. Nêu ra điển hình một thí dụ như thế, từ đó Phật tử có thể suy ra thì đủ biết. Bởi thế, nên tôi chân thành khuyên Phật tử nếu có dịp nên quy y và thọ giới là điều rất tốt.

 

Kính chúc Phật tử có đủ niềm tin và sáng suốt trên bước đường tu tập để chóng đạt được kết quả như ý muốn.

 

87. Năm hạng tang phục là gì?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con thường đi hộ niệm cho những người mới mất, trong lúc phát tang con nghe quý thầy xướng câu: Ngũ phục chi nhơn các thọ kỳ phục. Câu xướng nầy có ý nghĩa gì? và năm hạng tang phục là sao? Cúi xin thầy hoan hỷ giải thích cho con rõ. Thành kính cám ơn thầy.

 

Đáp: Theo "Thọ mai gia lễ", có năm hạng tang phục tùy theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ.

 

1. Đại tang: Trảm thôi và tề thôi.

a. Trảm thôi:

- Quần áo có sổ gấu gọi là trảm thôi: con để tang cha.

b. Tề thôi:

- Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa mất.

- Thời hạn 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2 năm, thêm 3 tháng dư ai)

- Áo xô, khăn xô có giải sau lưng (gọi là khăn ngang)

Nếu cha mẹ đều đã mất thì hai giải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai giải dài ngắn lệch nhau.

- Con trai chống gậy: tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm quấn đầu, dây chuối, dây đai thắt lưng.

 

Thời nay, nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục nầy, ở thành phố nhiều nhà dùng băng đen theo tang chế châu Âu, theo tôi, như thế có lẽ tiện hơn.

- Con trai, con gái, con dâu, đều để tang cha mẹ. (Kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ).

- Vợ để tang chồng.

- Nếu con trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang thay cha.

 

2. Cơ niên. Để tang một năm. Từ niên cơ trở xuống dùng khăn tròn, vải trắng không gậy.

- Cháu nội để tang ông bà nội.

- Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng, nếu không ở cùng thì không tang, trước có ở cùng sau thôi thì để tang 3 tháng.

- Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).

- Chồng để tang vợ và có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.

- Cháu để tang bác trai bác gái, chú, thím và cô ruột.

- Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang một năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng)

- Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà người.

- Chú, bác, thím cô ruột để tang cho cháu (con anh em ruột).

- Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).

- Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu, tang các con chồng, thứ mẫu tang con mình và con chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm.

- Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).

- Rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã lấy vợ khác cũng vậy).

- Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).

 

3. Đại công: để tang 9 tháng.

- Anh chị em con chú con bác ruột để tang cho nhau.

 

4. Tiểu công: Để tang 5 tháng.

- Ông bà cụ kỵ cũng để tang hàng cháu hàng chắt.

 

5. Ty ma phục: Để tang 3 tháng.

- Chắt để tang cụ (Hoàng tang chít khăn vàng).

- Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại: Hồng tang chít khăn đỏ)

 

Đại khái đó là năm hạng để tang cho những người trong thân thuộc ruột thịt. Cần nói thêm, theo nghi lễ, nếu chưa thành phục, thì trong nhà không ai được khóc. Hàng xóm tuy có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột thịt và những người lân cận tối lửa tắt đèn có nhau, coi như người nhà. Có những điều về tang chế ta cũng cần nên biết, cũng theo Thọ mai gia lễ, khi con chết chẳng những cha mẹ để tang con mà ông bà và cụ kỵ cũng để tang hàng cháu, hàng chắt.

 

88. Ba cha và tám mẹ là gì?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con có nghe người ta nói đến Ba cha và Tám mẹ, thú thật, con không biết Ba cha và Tám mẹ là gì? Mong thầy giải thích cho con rõ.

 

Đáp: Theo Thọ mai gia lễ giải thích:

 

Ba cha:

 1. Thân phụ: cha sinh ra mình.

 2. Kế phụ: sau khi cha chết, mẹ lấy chồng khác, chồng mới của mẹ là kế phụ hay bố dượng.

3. Dưỡng phụ: bố nuôi.

 

Tám mẹ:

1. Đích mẫu: vợ cả của bố.

2. Kế mẫu: khi còn nhỏ mẹ đã mất, cha lấy vợ khác để nuôi nấng mình.

3. Từ mẫu: mẹ chết từ tấm bé, cha sai người vợ lẽ nuôi mình bú mớm.

4. Dưỡng mẫu: mẹ nuôi, cha mẹ nghèo cho mình để người khác nuôi.

5. Xuất mẫu: là mẹ sinh ra mình nhưng bị cha ruồng rẫy.

6. Giá mẫu: là mẹ sinh ra mình, nhưng khi cha mất thì đi lấy chồng khác.

7. Thứ mẫu: là mẹ sinh ra mình nhưng là vợ lẽ của cha.

8. Nhũ mẫu: mẹ vú, cho mình bú mớm từ khi còn tấm bé.

 

89. Vấn đề thờ cúng người chết

 

Hỏi: kính bạch thầy, lâu nay con có những thắc mắc về vấn đề thờ cúng người chết, nhưng con chưa được ai giải thích rõ, vậy con xin thầy giải thích cho con rõ những vấn đề sau đây:

1. Cúng cơm cho người mới chết phải cúng như thế nào mới đúng?

2. Thiết lập bàn thờ cho người mới chết như thế nào?

3. Cách bày trí trên bàn thờ gồm có những gì?

 

Đáp: Việc thờ cúng cho người chết trong gia tộc, là điều rất quan trọng đối với người Việt Nam. Từ xưa, tổ tiên ta rất coi trọng về vấn đề nầy. Bởi đời người có hai lần quan trọng mà người ta quan tâm nhứt đó là: khi mới sinh ra và lúc chết đi. Theo Phong Tục Việt Nam của ông Phan Kế Bính đã viết: "Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính. Khi còn sống ông bà cha mẹ là đại ân nhân, theo phong tục và luân lý, con cháu phải một lòng kính dưỡng hiếu thảo; lúc ông bà cha mẹ chết, con cháu cũng phải sùng bái tỏ lòng nhớ ơn đồng thời cầu mong tổ tiên phò hộ..."

 

Theo quan niệm Nho giáo cho rằng: "Sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn", nghĩa là sự chết như sự sống, sự mất như sự còn. Do đó, mà người ta coi sự chết như là còn sống, lúc còn sống đối xử với ông bà cha mẹ như thế nào, thì lúc ông bà cha mẹ mất đi, bổn phận làm con cháu cũng phải đối xử y như vậy. Ngoài ra, tục thờ cúng người chết còn mang một ý nghĩa văn hóa rất cao đẹp đó là phải giữ gìn hiếu thảo cho trọn đạo. Do sự tin tưởng đó, tục thờ cúng người chết được phát sinh trong đó sự bày biện bàn thờ là điều quan trọng hơn hết.

 

Về cách thiết lập bàn thờ những người mới mất không được thờ chung với Gia tiên, mà phải thiết lập một bàn thờ riêng bên cạnh. Bàn thờ được bài trí một cách đơn giản: lư hương, bài vị hoặc ảnh người mất, bình bông, ba chung nước, cặp đèn cầy hoặc đèn điện, đèn dầu (hoặc đèn điện bóng nhỏ). Hằng ngày, (tính từ ngày an táng xong), trước khi gia đình ăn cơm, người nhà đều thắp hương, dọn mâm cơm (thường có ba món) mời người mới mất thụ hưởng. Người Việt Nam tin rằng lúc nầy linh hồn người chết vẫn còn quyến luyến người thân. Có nơi cúng đến 49 ngày, có nơi cúng đến 100 ngày, xưa cúng đến khi xả tang. Sau đó, dẹp bàn thờ người mới mất rước lư hương lên bàn thờ Gia tiên.

 

Tóm lại, cúng lễ người chết nói chung có thể cúng mặn hay chay (tùy theo gia chủ). Nếu là người Phật tử, thường thì thiết lễ đồ cúng chay ít khi cúng mặn. Thuở xưa, khi cúng thường có các đồ lễ như: trầu cau, rượu, thuốc lá, giấy tiền vàng bạc, đèn dĩa muối gạo. Có thêm 3 chung trà, 3 chung rượu, 3 chung nước để tượng trưng cho tam tài: Thiên, Địa, Nhân nghĩa là: Trời, Đất, Người. Nay, người ta thờ cúng đơn giản hơn. Đồ cúng lễ chỉ một mâm cơm và hoa quả. Điều quan trọng không phải cúng đồ ăn uống nhiều hay ít, mà điều quan trọng là ở nơi lòng thành của người dâng cúng. Thế nên, khi cúng ta phải tỏ ra hết lòng thành kính vậy.

 

90. Tam nghiệp cúng dường như thế nào?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, trong kinh có nói đến Tam nghiệp cúng dường, nhưng con chưa hiểu Tam nghiệp cúng dường như thế nào? Kính mong thầy giải thích cho con hiểu. Cảm tạ ơn thầy.

 

Đáp:  Tam nghiệp là thân, khẩu, ý. Nói nghiệp là vì ba thứ nầy tạo thành nghiệp. Như đã nói, nghiệp là thói quen do lặp đi lặp lại nhiều lần mà thành. Thói quen thì có thói quen xấu và thói quen tốt. Thói quen tốt gọi là thiện nghiệp. Thói quen xấu gọi là ác nghiệp. Cúng dường có nghĩa là cung cấp (cúng đọc trại của chữ cung) và nuôi lớn (dường đọc trại của chữ dưỡng). Nuôi lớn cái gì? Tức nuôi lớn căn lành. Nói thân nghiệp cúng dường, có nghĩa là năm vóc (đầu mặt và tay chân) của thân thể gieo xuống đất để thành kính đảnh lễ Tam bảo. Thân phải giữ oai nghi tề chỉnh nghiêm trang không được trạo cử. Đây là nói lúc hành giả hành lễ trong khi lạy Phật thân phải đứng ngay ngắn hướng về Tam bảo mà chí thành đảnh lễ. Đồng thời, thân phải giữ ba điều cấm giới nghiêm tịnh: không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nên dùng thân tạo các nghiệp lành. Đó gọi là dùng thân trang nghiêm cúng dường.

 

Còn nói khẩu nghiệp cúng dường có nghĩa là dùng lời hay tiếng đẹp để tán dương công đức Tam bảo. Trong khi lễ tụng ta không nên tụng niệm lớn tiếng làm áp đảo đại chúng. Ta phải lưu ý điều chỉnh âm thanh của mình để hòa âm cùng một cung bậc với đại chúng. Có người ỷ mình có âm thanh tốt tụng niệm lớn tiếng làm áp đảo tiếng của đại chúng, do đó đại chúng sanh lòng phiền thế là ta mang tội. Vì thế ta phải cẩn thận vấn đề nầy. Ngoài việc tụng niệm ra, khi giao tiếp với mọi người ta cũng phải nói lời hòa nhã êm dịu, luôn sử dụng ái ngữ trong khi hành xử. Đó là ta khéo biết dùng khẩu nghiệp cúng dường, nghĩa là làm cho căn lành của ta ngày tăng trưởng thêm lên.

 

Còn nói ý nghiệp cúng dường là trong khi lễ tụng tâm ý ta phải chú ý đến lời kinh tiếng kệ mà ta đang trì tụng. Tâm ta phải luôn thanh tịnh sáng suốt, không suy nghĩ lung tung. Đó là ta khéo biết dùng ý nghiệp cúng dường. Ngoài việc lễ tụng ra, ta hằng để tâm nhớ nghĩ đến sắc tướng trang nghiêm của chư Phật, Bồ tát, và nhớ nghĩ đến những pháp lành để hằng ngày dụng công tu tập phát triển hạnh lành hướng đời mình về đạo lý giác ngộ và giải thoát. Ta luôn nhiếp tâm thành ý để niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được thế, thì mới thực sự là ý nghiệp cúng dường vậy.

 

91. Vấn đề cúng chay và cúng mặn

 

Hỏi: Kính bạch thầy, mỗi khi cúng giỗ cho mẹ con, thì trong gia đình lại có những ý kiến bất đồng xung đột lẫn nhau. Có người thì bảo nên cúng chay, có người thì bảo nên cúng mặn. Vậy cúi xin thầy cho con lời khuyên nên cúng như thế nào mới đúng?

 

Đáp: Vấn đề cúng chay hay cúng mặn đó là tùy theo quan niệm nhận thức của mỗi người. Nhất là chủ trương của mỗi tôn giáo khác nhau. Trong câu hỏi của Phật tử, Phật tử không có nói rõ là những thành viên trong gia đình có cùng một tôn giáo hay có khác tôn giáo. Nếu có khác tôn giáo thì việc xảy ra bất đồng quan điểm gây nên chuyện xung đột, đó cũng là chuyện thường tình. Thậm chí có gia đình cùng theo đạo Phật, nhưng trình độ hiểu biết về đạo Phật của mỗi người khác nhau, nên cũng dễ gây ra tình trạng xung đột bất hòa về việc cúng chay mặn. Vấn đề cúng kỵ cho ông bà cha mẹ là một truyền thống lâu đời của người Việt Nam. Đó là một hình thức nhắc nhở con cháu phải nhớ đến cội nguồn. Cho nên dù cúng chay hay cúng mặn, cũng chỉ là cốt để bày tỏ tấm lòng hiếu thảo của người còn sống đối với những người đã khuất bóng. Nếu chỉ vì việc cúng chay, cúng mặn mà những thân nhân trong gia đình gây nên cảnh xào xáo xung đột bất hòa, như thế, thì đâu còn ý nghĩa gì của việc tưởng niệm cúng kỵ đó.

 

Để dung hòa những ý kiến bất đồng đó, theo tôi, thì những người thân trong gia đình nên làm theo ý kiến chung của đa số. Và đồng thời tìm một phương cách giải quyết thích hợp nhứt. Nếu người mất đã có lời di chúc, sau khi mất bảo con cháu phải cúng chay, thì tất cả con cháu phải nên tuân thủ làm theo tôn ý của lời di chúc đó. Như thế, mới thật là có hiếu. Vì không làm chống trái với ý nguyện của người thân đã mất. Cho nên, đúng ngày cúng kỵ thì con cháu trong gia đình nên cúng chay. Đó là thuận theo ý người mất. Riêng đối với việc xã giao bạn bè, thì con cháu có thể làm cỗ mặn để thiết đãi bạn bè thân thuộc. Tuy nhiên, để tránh sát hại sinh vật quả báo bất lợi cho người đã mất và người còn sống, thì chúng ta nên mua những sinh vật đã được làm sẵn bày bán ở thị trường. Đó là chúng ta dùng theo cách "Tam tịnh nhục", tức thịt của những con vật không thấy, không nghe, và không nghi. Không thấy người giết nó, không nghe tiếng kêu la giãy giụa của nó trước khi chết và cũng không nghi ngờ ai giết nó. Tam tịnh nhục này thời Phật còn tại thế Ngài đã cho các vị khất sĩ xuất gia được dùng loại thịt nầy. Như vậy, ta có thể dung hòa được, vừa không chống trái lời di chúc ý nguyện của người đã mất và cũng vừa thiết tiệc đãi bạn bè, thân thuộc trong thâm tình xã giao chòm xóm. Và như thế, cũng không đến đỗi mang tội lỗi nhiều. Trên đây, chỉ là ý kiến lời khuyên chân thành của chúng tôi, rồi tùy đó mà Phật tử suy xét. Mục đích là làm sao tránh gây ra sự xung đột bất hòa trong gia đình và cũng đừng gây thêm nghiệp quả cho người mất. Đồng thời cũng thể hiện tuân theo ý nguyện của người đã khuất.

 

Kính chúc Phật tử có nhiều sáng suốt trong việc cư xử tu thân tề gia và hành thiện mang nhiều lợi lạc thiết thực trong đời sống.

 

92. Ý nghĩa của lục tức Phật

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con có nghe nói đến lục tức Phật, nhưng con không hiểu Lục tức Phật ý nghĩa như thế nào? Vậy kính mong thầy giải đáp cho con hiểu. Cảm niệm ơn thầy.

 

Đáp: Theo tông Thiên Thai, Ngài Trí Giả Đại Sư có nêu ra Lục tức Phật. Thành phần của Lục tức Phật gồm có: 1. Lý tức Phật. 2. Danh tự tức Phật. 3. Quán hạnh tức Phật. 4. Tương tợ tức Phật. 5. Phần chứng tức Phật. 6. Cứu cánh tức Phật.

 

1. Lý tức Phật: Lý tức là lý thể, nghĩa là đứng trên lý thể mà nói, thì tất cả chúng sinh đều sẵn có Phật tánh (nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh - Kinh Đại Bát Niết Bàn). Trong Kinh Viên Giác nói: "Phàm có tâm tất nhiên có Phật". Đó là Phật trong lý thể, nên gọi là lý tức Phật. Như nói, tất cả những đồ nữ trang đều sẵn có chất vàng ròng. Đồ nữ trang tuy nhiều thứ có khác nhau, nhưng thể vàng ròng thì không có khác. Nếu không có chất vàng ròng, thì làm sao có thể tạo ra các đồ nữ trang cho những người phụ nữ trang sức. Cũng thế, vàng là dụ cho lý thể, tức Phật tánh đều sẵn có tiềm tàng trong tâm thức của mỗi chúng sanh. Nhưng đó chỉ là phần lý tánh mà thôi. Dù người đó có hung dữ đến đâu, nhưng họ cũng vẫn có tánh Phật giống như người hiền từ. Nếu như không có tánh Phật, thì họ không thể nào biết hồi tâm hướng thiện. Thực tế có lắm người trước kia họ là kẻ hung dữ sát nhơn, nhưng sau họ trở thành một con người rất hiền hòa lương thiện. Nếu không có chất Phật trong người họ thì làm gì họ biết hồi đầu cải ác tùng thiện? Nhưng chất Phật đó vẫn luôn có mặt trong mọi hành động hung ác của họ. Thậm chí những chúng sinh bị sa đọa trong địa ngục, họ vẫn có tánh Phật. Nhưng tánh Phật đó chỉ là lý mà thôi. Cho nên nói: Lý tức Phật vậy.

 

2. Danh tự tức Phật: Nghĩa là Phật mà Phật chỉ có trên mặt danh tự mà thôi. Như chúng ta xưng "Nam mô Phật" thì danh xưng đó chỉ là danh tự. Nhờ biết danh tự Phật mà ta mới có thể làm lành lánh dữ theo lời Phật dạy, đó gọi là Danh tự tức Phật. Giai đoạn nầy, có khác hơn giai đoạn trên, vì giai đoạn trên chỉ có lý tức Phật thôi. Tuy nhiên, nếu không có lý tức Phật thì làm sao có danh tự tức Phật? Nhờ nương vào danh tự tức Phật mà chúng ta mới có thể đạt được Lý tức Phật vậy.

 

3. Quán hạnh tức Phật: những hành giả nào khéo biết đi sâu vào lĩnh vực thiền quán, tư duy và thật hành đúng theo những lời Phật dạy, thì được gọi Quán hạnh tức Phật. Quán hạnh tức Phật nầy từ địa vị thập tín, thập trụ, thập hạnh đến thập hồi hướng. Không như danh tự tức Phật đến đây hành giả phải thật hành phép quán thật sâu sắc. Có hai pháp tu là quán và hạnh. Tu quán tức là thiền định, còn tu hạnh là bố thí, trì giới, nhẫn nhục ... Theo cố Hòa thượng Thiện Siêu cho rằng: "Quán là hành nghiệp thuộc về tâm linh, trí tuệ tức thuộc về ý. Hành là các hành nghiệp thuộc về thân và miệng. Tu tập bằng cách hành và quán. Phật ở trong hành quán ấy thì gọi là Quán hạnh tức Phật".

 

4. Tương tợ tức Phật: Đến đây hành giả đã đạt được sơ địa kiến đạo. Vì thấy rõ được Phật tánh của mình chớ không có lầm, tức ở phần khai, thị và ngộ. Ngộ là chính mình nhận ra chớ không phải mơ hồ theo văn tự. Tuy nhiên, vẫn chỉ là tương tợ chớ chưa phải là nhận ra Phật tánh một cách hoàn toàn. Giống như người thấy cha mình qua tấm hình chớ chưa phải thấy người cha qua hình hài thật bằng da bằng thịt. Nhưng tấm hình đó cũng đầy đủ hình dạng bóng dáng của người cha. Nếu như đem tấm hình đó đối chiếu với người cha thì cũng giống hệt không khác. Còn nếu đưa qua người khác thì không giống nên gọi là tương tợ.

 

Khi chưa tu quán hạnh, thì hành giả chưa nhận ra Phật tánh của mình. Phật tánh là tánh sáng suốt tuy vô hình nhưng bao trùm khắp cả muôn vật. Nhờ tu quán hạnh mà hành giả mới nhận ra được Phật tánh một cách gián tiếp nên gọi là tương tợ tức Phật.

 

5. Phần chứng tức Phật: Ở địa vị nầy là hành giả phải từ bậc sơ địa trở lên. Nghĩa là sau khi hành giả nhận ra được Phật tánh rồi, y cứ vào đó mà thật hành chứng đạt từng phần nên gọi là phần chứng tức Phật. Nói cách khác, hành giả phá trừ một phần vô minh tất chứng được một phần pháp thân. Dụ như thấy người cha qua từng phần bằng xương bằng thịt, chớ không phải thấy qua hình ảnh bóng dáng của người cha nữa.

 

6. Cứu cánh tức Phật: Đến đây hành giả đã đoạn trừ hết vô minh vọng hoặc và chứng ngộ trọn vẹn chơn như thật tánh, giác ngộ hoàn toàn gọi là cứu cánh thành Phật. Thế là hành giả đã được quả vị Phật quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đến đây không còn là Phật ở trong lý tánh nữa mà thể hiện hoàn toàn đầy đủ Ba đức: Trí đức, Đoạn đức, và Ân đức. Nói cách khác là đầy đủ Pháp thân, Bát nhã và Giải thoát vậy.

 

93. Có mấy loại mạn trong Phật giáo?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con thường nghe quý thầy giảng pháp hay đề cập đến vấn đề ngã mạn. Ý nghĩa của hai chữ ngã mạn thì con biết sơ qua, nhưng ngoài ra, con không biết còn có những loại mạn nào khác nữa không? Nếu có, thì xin thầy hoan hỷ nêu ra và giải thích cho con được hiểu. Con kính trọng ơn thầy.

 

Đáp: Trong kinh điển Phật giáo thường nêu ra có bảy loại mạn: 1. Mạn, 2. Quá mạn. 3. Mạn quá mạn. 4. Tăng thượng mạn. 5. Tà mạn.  6. Ty liệt mạn. 7. Ngã mạn.

 

Trong quyển Hán Việt Tự Điển của cụ Thiều Chửu giải thích chữ mạn có nghĩa là tràn đầy, luông tuồng không tự kiềm chế, gọi là tản mạn.

 

1. Mạn: Mình bằng người mà cho mình hơn người. Hoặc người hơn mình mà mình cho người đó thua mình. Tâm lý nầy đều gọi là mạn.

 

2. Quá mạn: Mình thua kém người ta ở một phương diện nào đó, nhưng mình vẫn không chịu thua và còn cho mình là bằng người. Hoặc giả trình độ hiểu biết của mình ngang hàng người ta mà mình vẫn tự hào cho rằng mình hiểu biết hơn người ta. Nghĩa là lúc nào mình cũng nâng cao mình lên hơn người một bậc, đó gọi là Quá mạn.

 

3. Mạn quá mạn: Hạng người nầy lúc nào cũng tự cho mình là hơn người. Tự cho mình tài giỏi hơn người đến hai bậc. Do ỷ mình như thế nên sanh tâm khinh thường kẻ khác. Hạng người nầy gọi là Mạn quá mạn.

 

4. Tăng thượng mạn: Hạng người nầy mới được một ít cho là đủ. Họ là hạng người luôn luôn tự mãn không bao giờ chịu học hỏi với ai. Thậm chí họ tu hành chẳng ra chi, mà cứ tự hào khoe khoang với mọi người là họ đã ngộ như thế nầy và chứng quả như thế kia. Họ chỉ là một kẻ phàm phu tục tử vậy mà dám cả gan tự xưng mình là chứng Thánh. Đây là hạng người Tăng thượng mạn vậy.

 

5. Tà mạn: Những hạng người mang nặng hạt giống ngoại đạo, hành theo tà đạo rồi chấp vào định kiến của mình mà chê bai kích bác người khác, dù người đó đang thật hành đúng theo chánh lý. Do bảo thủ tư kiến của mình mà họ rơi vào con đường tà kiến khi nào không hay biết. Họ tự cho họ là người sống đúng theo chơn lý, nhưng thực tế họ là người đang thật hành theo tà đạo. Họ chấp chặt vào tà nhơn, tà quả, rồi tự thị vào tà nhơn, tà quả đó mà khinh thường những người khác. Đó là hạng người tà mạn vậy.

 

6. Ty liệt mạn: Hạng người nầy dù thua thấp kém hơn người rất nhiều, nhưng họ vẫn tự thị cho họ là thua kém chút ít thôi. Có đôi khi họ tự biết là mình thấp hèn, nhưng vẫn cứ bảo thủ không chịu phục tùng học hỏi với bất cứ ai. Hạng người nầy thật là đáng thương hơn đáng trách.

 

7. Ngã mạn: Tâm lý ngã mạn nầy hầu hết không một ai tránh khỏi. Chỉ có thể khác nhau trên cường độ bảo thủ chấp ngã và ngã sở nặng hay nhẹ mà thôi. Mọi sự khổ đau của nhơn loại, gốc cũng từ nơi chấp ngã nầy mà ra. Vì chấp ngã nên không chịu khuất phục thua sút ai. Từ đó gây ra biết bao thảm trạng chiến tranh sát hại lẫn nhau không chút gớm tay. Dù ở địa vị nào, ở trình độ nào, con người luôn luôn là bảo thủ chấp ngã. Ai cũng thấy mình là cái rốn của vũ trụ nên không cho ai có quyền vượt trội hơn mình. Kẻ nào hơn mình là kẻ đó phải chết. Ai cũng tự cao tự đại như thế, cho nên cái ngã nầy phải đụng với ngã kia. Vì mãi đụng nhau như thế thì thử hỏi nhơn loại làm sao có thể sống chung hòa bình cho được? Do vì không hiểu được chơn lý vô ngã nên nhơn loại mới gây ra biết bao thù hận đấu đá chém giết lẫn nhau. Tranh chấp sát hại, hẹp thì từ cá nhân với cá nhân, rộng hơn một chút, thì từ đoàn thể với đoàn thể và rộng ra là cả thế giới, tất cả cũng chỉ vì chấp ngã mà ra. Cho nên cái tâm lý ngã mạn nầy rất là độc hại. Người có chí thiết tu hành thì diệt trừ được lòng ngã mạn chút ít. Bởi do vô minh si mê nên mới chấp ngã, chấp pháp. Thế gian bị điên đảo đại loạn bất an và con người luôn bị khổ đau trong vòng sanh tử, tất cả cũng bởi do hai thứ chấp ngã nầy mà ra.

 

Khi biết rõ tai hại của bảy loại mạn nói trên để từ đó chúng ta cố gắng quán chiếu thật sâu biết rõ hành tướng của mỗi loại tâm lý nầy hầu để tìm cách chuyển hóa chúng. Có thế thì đời ta mới hết khổ đau vậy.

 

94. Vì chuyện thị phi làm thối Bồ đề tâm

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con là một Phật tử quy y và đi chùa đã lâu, nhưng mỗi khi con vô chùa, con lại nghe lắm chuyện thị phi. Họ phê bình nói xấu người nầy, người kia đủ thứ chuyện. Thấy vậy, thú thật con rất là bất mãn và tự hỏi tại sao họ biết đi chùa mà còn nhiều chuyện như vậy? Thế thì đâu có khác gì người đời, xin lỗi, còn hơn người đời nữa không chừng. Từ đó Bồ đề tâm của con lại bị thối thất chán nản không còn muốn đi chùa nữa. Vậy xin thầy có cách nào chỉ dạy cho con để con đừng bị thối thất Bồ đề tâm không? Con cảm ơn thầy nhiều.

 

Đáp:  Qua câu hỏi trên, tôi rất thông cảm cho tâm trạng và trình độ hiểu biết về Phật pháp của Phật tử. Mặc dù Phật tử quy y và đi chùa đã lâu, nhưng sự tu học của Phật tử vẫn chưa được vững vàng cho lắm. Chính vì thế, nên Phật tử mới đâm ra chán nản thối thất Bồ đề tâm và không muốn đi chùa nữa. Phật tử nên biết rằng, không phải ai quy y và đi chùa lâu năm cũng đều là người tốt có phẩm chất đạo đức hết đâu. Bởi quy y và đi chùa chưa phải là tu. Đó chỉ là hình thức bề ngoài, còn tu là phải hằng quán chiếu gạn lọc phiền não có thực chất đạo đức bên trong. Quy y và đi chùa suông như thế thì thử hỏi làm sao có lợi ích?!

 

Vì không chịu học hỏi để biết rõ đường lối tu hành, nên mới sanh ra có lắm chuyện tranh chấp nhân ngã thị phi. Người biết tu là người thường thấy lỗi lầm của mình mà không thấy lỗi lầm của người khác. Có thấy lỗi lầm của mình để sửa đổi chừa bỏ thì, đó mới thật là người khéo biết tu hành. Phật tử nên biết rằng, mỗi người có mỗi chủng tánh biệt nghiệp khác nhau. Nghiệp lực nặng hay nhẹ là tùy theo nghiệp nhân mà họ đã gây tạo. Có người thì nghiệp chướng quá nặng nề, có người thì tương đối nhẹ hơn. Do đó, nên trình độ tu tập và nhận thức của mỗi người mỗi khác. Phật tử đến chùa cùng sinh hoạt tu tập chung trong một môi trường, đó là cộng nghiệp. Tuy nhiên, trong cái cộng nghiệp đó, dĩ nhiên, là có nhiều cái biệt nghiệp khác nhau. Biệt nghiệp có ra là do mỗi người huân tập ảnh hưởng hấp thụ bởi môi trường sống chung quanh. Sự tác động ảnh hưởng trở thành quán tính nặng, nhẹ điều đó không sao tránh khỏi. Quán tính đó là nghiệp. Nghiệp là thói quen, là tập khí, là chủng tử do mỗi người huân tập mà thành. Thói quen, tất nhiên là có thói quen xấu và thói quen tốt. Nói cách khác, nghiệp có nghiệp lành và nghiệp dữ.

Người hay bươi móc những lỗi lầm của kẻ khác, chuyên vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, đó là hạng người vướng phải thói quen rất xấu. Đó là hạng người ăn cơm nhà hay nói chuyện người ta. Thói quen nầy, do vì họ không biết tu tập để chuyển hóa nó. Chẳng những không có chuyển hóa mà ngày càng làm cho nó tác tệ phát triển mạnh hơn. Chùa là môi trường để tu tập, để chuyển hóa những hạt giống xấu thành những hạt giống tốt. Môi trường tốt là do từ mỗi cá nhân khéo biết tạo thành. Chùa cũng là nơi hội tụ đủ mọi thành phần, mọi giới và mọi trình độ nhận thức khác nhau. Không phải ai tới chùa cũng để luận bàn chuyện thiên hạ sự. Có người đến chùa cốt để nghe pháp và tìm hiểu học hỏi giáo lý Phật dạy. Họ luôn cố gắng nỗ lực thiết tha trong sự tu tập. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi chùa mà có những cách hướng dẫn sinh hoạt tu học khác nhau. Tuy nhiên, dù hướng dẫn cách nào, mục đích chính nhắm tới vẫn là hướng dẫn mọi người tu tập đúng theo con đường giác ngộ và giải thoát. Đó là hướng dẫn đúng theo lộ trình chánh pháp Phật dạy. Vì thế, người Phật tử có quyền chọn lựa cho mình một nơi tu học thích hợp. Sự chọn lựa nầy không ai có quyền ngăn cản cả. Vì đó là lợi ích riêng cho cá nhân mình. Nếu xét thấy, nơi nào không thích hợp cho việc tu học của mình thì mình không đến. Nhưng thưa thật với Phật tử, trên thế gian nầy, Phật tử đi tìm một nơi hoàn toàn hợp theo lý tưởng ý muốn của mình thì chắc đốt đuốc cũng khó tìm ra. Tâm lý đứng núi nầy trông núi nọ, rốt lại chỉ chạy lòng vòng mà không đi tới đâu. Vì đến nơi nào cũng cảm thấy bất mãn không như ý mình cả.

 

Điều Phật tử nói, đến chùa nghe người ta đàm tiếu nhiều chuyện thị phi, phê bình, chỉ trích, nói xấu, chê bai, khen tặng v.v... việc nầy chùa nào mà lại không có?! Chẳng qua có ít hay nhiều đó thôi. Ở trong chùa, nơi thường xảy ra bàn tán chuyện thị phi nhiều nhất, phải thành thật mà nói là ở khu vực nhà bếp. Vì nơi đây là khu đặc biệt chuyên nghiệp của phái nữ. Người ta gọi khu nầy là khu nhiều chuyện nhất. Ai muốn biết chuyện gì xảy ra ở ngoài đời thì hãy đến khu vực nầy. Bởi khi làm việc xắt gọt, nấu nướng, xào chiên v.v... họ thường chụm ba, chụm bảy tất nhiên, khi đó là phải đem chuyện thiên hạ ra nói. Cho nên có lắm người đến chùa họ rất sợ bước chân đến khu vực nầy. Sở trường của đa số phái nữ là hay bươi móc nói xấu phê bình chê bai sau lưng người khác. Đó là nghiệp nặng của phái nữ. Nói thế, không phải là phái nam không có. Những nơi tụ họp bàn tròn, bàn vuông, bàn dài, tán hưu, tán vượn, tán ngẫu, tán dóc toàn nói chuyện bù khú thế gian, bình luận thiên hạ sự, hết chuyện ngoài đời tới chuyện trong đạo, đó cũng là sở trường của mấy ông nhiều chuyện lắm mồm lắm mép. Nơi đâu mà lại không có những chuyện nầy xảy ra! Vì đó là vô minh nghiệp hoặc sâu nặng của chúng sinh. Bởi vậy, nên mới có xảy ra nhiều việc đôi chối và làm mất hết tình cảm thân thiết với nhau. 

 

Có người hay nói xấu sau lưng người khác, nói xong họ không chịu trách nhiệm lời nói của mình. Khi nói, họ không chịu kiểm soát lời nói của họ. Lời nói của họ toàn chứa đựng những vị chua cay độc ác làm cho đối phương phải nếm mùi buồn khổ. Họ phun ra lời nói độc ác mà họ không hề hay biết.  Tuy họ không chịu trách nhiệm những gì họ nói, nhưng họ đâu có biết rằng, khi thốt ra thành lời rồi tất nhiên, đều phải có quả báo. Đã có nhân thì làm sao tránh khỏi quả báo?  Dù muốn hay không họ cũng phải trả quả báo theo luật nhân quả. Họ tưởng lời nói giống như gió thoảng mây bay không có quả báo. Nghĩ thế là họ đã sai lầm to. Nếu không có quả báo thì, tại sao Phật Tổ đều khuyên người Phật tử nên tu cái khẩu nghiệp? Dù họ tạo ra bao nhiêu phước đức cuối cùng, họ cũng bị cái khẩu nghiệp của họ đốt phá thiêu hủy hết. Thật là đáng thương xót lắm thay! Thế nên, cùng là đi chùa mà người đi chùa thì có phước, còn người đi chùa thì lại gây thêm tội lỗi. Nói rõ hơn, cùng một việc làm mà người làm có phước còn người làm lại có tội. Có phước là vì họ làm bằng cái tâm hoan hỷ buông xả và họ không bao giờ dùng lời nói nặng nhẹ sai khiến hay nói xấu bất cứ ai. Họ luôn ý thức và gìn giữ chánh niệm. Đó là người khéo biết tu tạo tài bồi phước đức cho mình. Ngược lại, có tội là vì họ làm bằng cái tâm tham, sân, si, đố kỵ ganh tỵ, hết hại người nầy tới hại người kia, vì bản ngã mà họ tạo ra rất nhiều tội lỗi bởi cái khẩu nghiệp của họ. Hạng người nầy họ chỉ biết đến chùa làm chút ít công quả, nhưng thực tế thì họ không biết tu hành gì cả. Người khéo biết tu là phải tu ở nơi ba nghiệp. Trong ba nghiệp, cái khẩu nghiệp làm cho mình và người đau khổ nhiều nhất. Thế nên, người biết tu hành và sợ quả báo thì phải nên tránh cái khẩu nghiệp nầy.

 

Hơn nữa, có người đi chùa lâu năm mà họ không có chút tiến bộ nào trên đường tu tập. Tại sao như thế? Bởi vì họ chỉ biết đi chùa cầu khẩn van xin cúng bái thôi, chớ họ không có cái tâm tha thiết trong việc tu học. Vấn đề nầy, chúng tôi cũng đã có nói qua rải rác trong những câu hỏi có liên quan đến việc đi chùa của người Phật tử, trong hai quyển: 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập 1 và 2. Như trong tập 2, ở trang 339, câu hỏi số 98: "Một người thường đi chùa nhưng tánh tình vẫn không thay đổi". Thiết nghĩ, Phật tử nên đọc lại câu hỏi nầy thì sẽ biết rõ hơn.

 

Trở lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử nói vì chuyện thị phi mà làm cho Phật tử muốn thối thất Bồ đề tâm. Đây là một tâm lý rất thường tình của con người không sao tránh khỏi. Đa số Phật tử đi chùa chỉ thích làm công quả để có phước, chớ ít khi chịu nghiên cứu học hỏi tu tập. Do đó, nên khi đụng chuyện khó khăn không như ý mình thì liền thối thất Bồ đề tâm. Đó chỉ là thiệt hại cho mình mà thôi. Trường hợp của Phật tử, nếu xét thấy mình chưa đủ bản lãnh hay không thể nhập cuộc với họ, thì tốt nhứt là nên tránh duyên. Nghĩa là không nên lân la gần gũi những nơi hay nhiều chuyện. Nhất là đối với những người hay lắm chuyện nhiều lời, thường nói xấu sau lưng kẻ khác, thì mình nên tránh xa không giao du thân thiện với họ. Phật tử nên khéo léo uyển chuyển linh động tạo cho mình có được cái tâm an lạc trong khi đến chùa tu học. Phật tử nên theo sự hướng dẫn của chư Tăng, Ni mà chuyên cần tu tập. Nếu là ngày thọ bát thì Phật tử chỉ một bề quyết chí tu học thôi, còn ai có nói gì thì Phật tử cũng đừng quan tâm nghĩ đến. Bởi Phật tử tu cho mình chớ không phải tu cho họ. Khi Phật tử chịu khó tu tập vững vàng rồi, dù cho ai có nói ngửa nói nghiêng, nói gì đi chăng nữa, thì tâm của Phật tử vẫn giữ vững chắc như kiềng ba chân. Nếu chưa được như vậy, thì tôi thành thật khuyên Phật tử không nên tiếp xúc gần gũi với những hạng người đó. Vì kẻ hay nói xấu sau lưng người khác, đó là hạng tiểu nhơn mình nên lánh xa. Gần họ chỉ chuốc thêm phiền não mà thôi. Tránh nhân thì không có quả. Phật tử không nên vì họ mà thối tâm bồ đề. Mình phải có lập trường vững chắc trong sự tu học. Không phải vì người nầy, người nọ không tốt mà mình phải thối tâm. Con đường tu học để được giác ngô giải thoát, tất nhiên, chúng ta phải gặp nhiều chướng duyên khó khăn trở ngại. Gương xưa của các bậc Hiền Thánh đã cho ta thấy rất rõ điều đó. Không có sự thành công tốt đẹp nào mà không trải qua những chướng ngại gian lao thử thách. Muốn trở thành một con dao sắc bén, tất nhiên, con dao đó phải trải qua một quá trình rèn luyện. Một tượng Phật được tướng hảo quang minh mà chúng ta tôn thờ lễ bái, tất nhiên, tượng Phật đó cũng phải trải qua một quá trình tạc tạo tô đắp, điêu khắc v.v... của những bàn tay nghệ nhân đầy nghệ thuật. Trước khi trở thành con dao hay tượng Phật, Bồ tát, thì tất cả những vật tạo nên chỉ là một thanh sắt vụn hay những bao xi măng cốt sắt hoặc là những khúc gỗ ở ngoài rừng. Thử hỏi có ai sử dụng hay tôn thờ chiêm bái những thứ đó không? Cũng thế, muốn trở thành một con người hoàn thiện, tất nhiên, chúng ta cũng phải trải qua những chướng duyên khó khăn trong tiến trình tu tập. Nghĩa là phải chịu sự rèn luyện lâu ngày mới thành tựu tốt đẹp được. Nghĩ thế, dù gặp bất cứ nghịch cảnh nào, chúng ta cũng phải bền tâm kiên nhẫn để vượt qua. Có thế, thì chúng ta mới thành công trong sự nghiệp tu học vậy.

 

Kính chúc Phật tử luôn có đầy đủ nghị lực và trí tuệ sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn thử thách trên bước đường tu tập cho đến ngày thành công viên mãn Phật quả.

 

95. Bốn thứ quả báo

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con thấy trong kinh có nói đến bốn thứ quả báo, nhưng con không hiểu bốn thứ quả báo đó là gì? Kính mong thầy hoan hỷ giải thích cho con rõ.

 

Đáp: Trong Pháp Uyển Châu Lâm 69, có nói đến bốn thứ quả báo như sau:

 

1. Người trước khổ sau vui: Có người trước sanh vào nhà nghèo nàn, cơm không đủ no, áo không đủ mặc, chịu nhiều điều khốn khổ, nhưng tâm không tà kiến, tự nghĩ rằng, đời trước ta không biết bố thí, không tu phước đức cho nên phải chịu nghèo nàn, liền sám hối sửa đổi những việc làm hằng ngày trước và tu các hạnh lành, đời sau sanh trong loài người thì có nhiều tài sản của báu không thiếu gì, đó gọi là người trước khổ sau vui.

 

2. Người trước vui sau khổ: Có người trước sanh vào nhà giàu sang, cơm áo đầy đủ và hưởng nhiều khoái lạc, nhưng trong tâm tà kiến, không biết bố thí tu phước lại tạo nhiều nghiệp ác, sau đọa vào địa ngục, chịu nhiều thống khổ; nếu sanh trong loài người thì nghèo nàn, xấu xí, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đó gọi là người trước vui sau khổ.

 

3. Người trước khổ sau khổ: Có người trước sanh vào nhà nghèo nàn, ăn thiếu, mặc rách và chịu nhiều bức bách, tâm lại tà kiến gây tạo nhiều việc ác, sau đọa vào địa ngục chịu nhiều thống khổ; nếu sanh trong loài người cũng rất nghèo nàn thiếu thốn, đó là người trước khổ sau khổ.

 

4. Người trước vui sau vui: Có người trước sanh vào nhà giàu sang, có nhiều tài sản của báu và được hưởng nhiều khoái lạc, lại kính trọng Tam bảo, bố thí tu phước, sau sanh trong loài người, cõi trời, hưởng sự giàu sang và có nhiều tài sản của báu, tự tại như ý, đó gọi là người trước vui sau vui (Tự Điển Phật Học Huệ Quang tập 8 trang 7095).

 

Đó là bốn thứ quả báo mà chính do con người tạo ra. Theo luật nhân quả, tạo nhân gì thì sẽ gặt hái quả đó. Gây tạo nhân lành tất nhiên là chúng ta sẽ hưởng quả lành. Ngược lại, gieo nhân ác thì phải gặt hái quả ác. Muốn cho hiện đời và đời sau được an vui, thì chúng ta nên cố gắng tạo điều lành. Nhờ tạo nhiều nghiệp lành mà hiện đời ta được an vui và đời sau cũng được an vui. Đó là hạng người trước vui sau vui vậy.

 

96. Bốn thứ quán hạnh là gì?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con có nghe nói đến bốn thứ quán hạnh, nhưng con chưa hiểu bốn thứ quán hạnh là gì? Kính xin thầy từ bi giảng giải cho con rõ.

 

Đáp: Bốn quán hạnh mà người tu hành sám hối thực hiện để làm phương tiện diệt tội. Trong kinh có nêu ra bốn thứ quán hạnh như sau:

 

1. Quán nhân duyên: Tức quán nhân duyên tạo tội. Hành giả phải hằng quán sát mọi tội lỗi có ra đều do vô minh chủ động thúc đẩy ba nghiệp: thân, ngữ, ý tạo thành tội. Vì thiếu năng lực chánh quán, chánh niệm, không biết tội lỗi, xa lìa thiện tri thức, tạo những điều bất thiện, vì nhân duyên đó nên bị trôi lăn trong sanh tử, chịu nhiều nỗi thống khổ không biết bao giờ mới được thoát ra.

 

2. Quán quả báo: Tức quán quả báo của việc tạo tội. Hành giả hằng tư duy quán chiếu như thế nầy: Cái quả báo hiện ta đang phải trả đây, không phải ngẫu nhiên mà có. Tất nhiên, phải có cái nguyên nhân sâu xa của nó. Cái nguyên nhân sâu xa đó là do vô minh nghiệp thức bất giác gây ra. Từ đó mà ta phải chịu luân chuyển nổi trôi trải qua nhiều đời thọ quả khổ không cùng tận, đắm chìm trong biển sanh tử, mịt mờ không bờ mé, khác nào như ôm tảng đá nặng nhảy xuống vực sâu, khó bề ra khỏi.

 

3. Quán tự thân: Quán thân mình tuy có Phật tánh nhưng bị bao thứ phiền não che lấp, nếu không nhờ công đức quán chiếu sâu sắc của trí huệ thì không thể nào hiển lộ được Phật tánh. Hành giả cần phải phát khởi cái tâm thù thắng để chuyển hóa sạch hết vô minh phiền não, hiển bày tánh giác, chứng đắc diệu quả Vô Thượng Bồ Đề. Đó là hằng quán chiếu nơi tự thân.

 

4. Quán thân Như Lai: Quán thân Như Lai đầy đủ các công đức, vắng lặng thường trụ, tùy phương tiện thị hiện Niết bàn nhưng tâm từ bi cứu độ chúng sanh không hề tạm bỏ.

 

Đó là bốn thứ quán hạnh mà mỗi hành giả cần nên quán chiếu tu tập. Có quán chiếu sâu sắc như thế, thì mới có thể biết rõ nguyên nhân tạo tội và cái quả báo mà chúng ta phải trải qua nhiều đời thọ khổ. Muốn chấm dứt vòng sanh tử khổ đau là chúng ta phải nỗ lực tiến tu nhận diện và chuyển hóa hết vô minh phiền não, có thế thì mới mong thành tựu được Phật quả vậy.

 

97. Vấn đề kinh điển ngụy tạo

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, gần đây dư luận cho rằng, các kinh điển thuộc hệ thống Đại thừa hay Phát triển, không phải là kinh "gốc" vì không tìm thấy văn kinh bằng tiếng Pali hay Sanskrit, do đó nên họ cho là kinh ngụy tạo, đây là kinh do người Trung Hoa tự tạo, sau khi Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang. Việc nầy con rất thắc mắc không biết quan niệm đó có đúng không? Kính mong thầy giải thích cho con hiểu.

 

Đáp: Vấn đề nầy đã có nhiều bài viết luận giải tường tận đăng trên các trang mạng cũng như có những buổi hội thảo của chư Tăng, Ni qua hình thức vấn đáp để làm sáng tỏ vấn đề. Tuy nhiên, ở đây Phật tử đã hỏi, thì tôi cũng xin mạo muội góp chút ngu ý theo thiển kiến của chúng tôi. Vì phạm vi trả lời câu hỏi có giới hạn, nên chúng tôi chỉ xin được giải bày một cách ngắn gọn vắn tắt mà thôi. Nếu Phật tử muốn tìm hiểu rõ vấn đề hơn thì, xin đọc trên các trang mạng nói về kinh Ngụy tạo hay Tân kinh.

 

Theo các học giả Tây phương cũng như một số người khi nghiên cứu về các hệ thống kinh điển Phật giáo, thì họ cho rằng các kinh điển Đại thừa, như Kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang, Bát Nhã, Phạm Võng, Địa Tạng, Lăng Già, Duy Ma Cật v.v... không phải là kinh gốc xuất phát từ thời Phật qua văn tự Pali và Sanskrit, tất nhiên, họ cho rằng, những kinh điển nầy đã được trứ tác sau thời gian Phật nhập diệt và do các vị tổ sư Trung Hoa " Ngụy tạo", còn gọi là Tân kinh. Một nhóm người còn cho rằng, các loại kinh nầy mang màu sắc chính trị do người Trung Hoa có tư tưởng bá quyền tự tạo. Những luận điệu nầy họ dựa vào một vài chứng tích khảo cổ để suy luận quyết đoán. Dĩ nhiên, có lắm người nghiên cứu kinh điển Phật giáo, không phải với tư cách là một học giả thôi mà là qua kinh nghiệm của một hành giả, đương nhiên là họ không thể chấp nhận được. Từ ngữ Apocrypha trong tiếng Anh có nghĩa là chỉ cho các văn bản không phải là bản gốc, ta có thể hiểu đó là những "kinh sau thời đức Phật", "kinh phát triển" hay "Tân kinh..." chứ không phải mang một nghĩa "xấu" như khi chuyển tải qua tiếng Việt thành từ "Ngụy tạo". Đây là một từ ngữ Hán Việt diễn tả khá nặng nề mang tính bất hảo trong ngôn ngữ. Nói "Ngụy tạo" có nghĩa là "kinh xảo trá", "kinh lường gạt"  "kinh sai sự thật" hay là "kinh ngụy biện v.v...". 

 

Những kinh điển Đại thừa đã nêu trên, theo chỗ học hỏi hiểu biết nông cạn của chúng tôi, đây là những bộ kinh lớn do sau khi đức Phật thành đạo nói ra. Không phải vì không thấy trong văn hệ Pali hay Sanskrit mà vội cho là các kinh đó Ngụy tạo. Thử hỏi các nhà học giả Tây phương có phải họ là những bậc chứng Thánh hết chưa? Hay họ cũng chỉ là những nhà nghiên cứu mò mẫm dò dẫm dựa vào thế trí biện thông hay một vài chứng tích nào đó mà cho rằng, đó là những kinh điển Ngụy tạo sau thời Phật. Tệ hơn nữa, là trong giới Tăng sĩ, có những người đã từng ăn cơm của Đàn na tín thí, tu học theo các kinh điển Đại thừa mà được trưởng thành trong Phật giáo lại biểu đồng tình với một số các học giả Tây phương rồi phán quyết một câu "xanh rờn" là: "các kinh điển Đại thừa đều do mấy ông tổ Trung Hoa Ngụy tạo". Đây là những vị có học vị văn bằng cao, nghiên cứu sâu rộng, lẽ ra nên sử dụng sở học của mình mà tìm cách phủ bác và làm sáng tỏ vấn đề để cho một số học giả Tây phương thấy rằng, "kinh điển Đại thừa không phải là những kinh điển "Bịa đặt" như các ông đã ngộ nhận lầm tưởng". Như thế, mới xứng đáng là chúng trung tôn của Đấng Điều Ngự, là đầu tàu của lịch sử, là trưởng nam của lịch sử truyền thừa, là tồi tà phụ chánh. Thế nhưng, điều đáng tiếc và đáng nói ở đây thì trái ngược lại.

 

Sao quý ngài không noi theo tấm gương của Hòa thượng Tuyên Hóa, là một bậc cao tăng cận đại đã lớn tiếng khẳng quyết rằng: "Có một số tự cho mình là học giả có hạng, chưa hề nghiên cứu sâu rộng về Đạo Phật, đã tự nhận mình là chuyên gia Phật học, tự nhận mình có đủ uy tín mà sự thực không hiểu Phật giáo cho đến ngành ngọn, khinh suất cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là một kinh ngụy tạo. Từ đó, lại có một số, có dụng ý khác ùa theo phụ họa. Đúng là kẻ mù dắt kẻ mù, thật đáng thương xót!"

 

Chúng tôi chỉ trích dẫn một đoạn ngắn nói về "Kinh Lăng Nghiêm Là Kinh Ngụy Tạo Chăng" của cố Hòa thượng Tuyên Hóa để chúng ta thấy rõ việc nghiên cứu của một số người Tây phương tự nhận mình là học giả rồi muốn nói sao cũng được.

 

Cần nói rõ thêm, có những quyển kinh không phải do chính kim khẩu đức Phật nói ra, mà do các đệ tử của Ngài trình bày thuật lại. Điển hình như Kinh Duy Ma Cật chẳng hạn. Kinh nầy hoàn toàn không phải Phật nói. Thế nhưng, phải được sự xác chứng của Phật. Đó là nói khi Phật còn tại thế. Sau khi Phật nhập diệt, đời sau, cũng có một vài quyển kinh do các vị tổ sư chứng đạo nói ra. Điển hình như Kinh Pháp Bảo Đàn là do đức Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng. Đúng ra, không được gọi là kinh mà chỉ có thể gọi là Ngữ lục. Nghĩa là ghi chép lại những gì Tổ nói. Nhưng ở đây sở dĩ được gọi là kinh, lý do là vì nội dung xứng hợp với chân lý giống như lời Phật dạy, nên được mọi người trân kính tôn xưng là kinh.

 

Kinh nói cho đủ phải nói là khế kinh. Chữ khế nghĩa là xứng hợp, phải đủ hai nghĩa:  khế lý và khế cơ. Khế lý là hợp với chân lý muôn đời bất di bất dịch. Khế cơ là hợp với mọi trình độ căn cơ và mỗi thời đại. Nghĩa là phải phù hợp với trào lưu tư tưởng của nhơn loại trải qua mỗi thời đại. Nếu thiếu một trong hai nghĩa nói trên thì không thể gọi là kinh. Thế thì, bất luận kinh nào mà xứng hợp với hai nghĩa nói trên đều cũng có thể gọi là kinh cả. Nói xứng hợp với chân lý, thì không ngoài: "Tam pháp ấn, Tứ pháp ấn và Nhất thật tướng ấn". Tam pháp ấn: "Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, niết bàn tịch tịnh". Tứ pháp ấn: "Khổ, không, vô thường, vô ngã". "Nhất thật tướng ấn là một thực thể bất sinh bất diệt vượt ngoài đối đãi nhị nguyên". Bất luận kinh nào cũng không ngoài những chân lý đó. Nếu ra ngoài những tiêu chuẩn chân lý nêu trên thì không thể gọi là kinh Phật được. Thế thì, muốn biết kinh nào ngụy tạo hay không ngụy tạo thì thiết nghĩ, chúng ta cũng phải dựa vào những tiêu chuẩn đó để mà xác định. Dựa vào khế cơ, mà các bậc tổ sư ngộ đạo, chứng đạt chân lý, những vị đó cũng có thể sáng tác cho phù hợp với căn cơ thời đại, nhưng vẫn không lệch ngoài khế lý. Thế thì có gọi là kinh cũng chẳng có sao. Nói ngụy tạo là kinh đó hoàn toàn không xứng hợp với khế lý và khế cơ, Đó phải nói là những quyển kinh của ngoại đạo, tuy nội dung họ có nêu ra những danh hiệu Phật hay Bồ tát, chẳng qua là với hình thức giả dối lộng giả thành chơn, tráo trở đánh lận con đen đó thôi.

 

Nói tóm lại, không phải vì các kinh điển không hệ thuộc vào văn bản Pali hay Sanskrit mà kết luận cho rằng đó là những kinh điển ngụy tạo. Những ai tuyên truyền bài bác các kinh điển Đại thừa như thế, nói theo Hòa Tuyên Hóa thì, đó chỉ là những người mù dắt dẫn những người mù đi trong đêm tối vô minh mà thôi. Và cũng xin ai đó chớ có ùa theo mà bôi bác kinh điển Đại thừa để phải mang tội nặng là phỉ báng kinh vậy.

 

98. Bốn loại Thanh Văn

 

Hỏi: Kính bạch thầy, đọc trong kinh thấy có nêu ra bốn loại Thanh Văn, nhưng con chưa hiểu bốn loại Thanh văn gồm những loại Thanh Văn nào? Kính mong thầy giải thích cho con hiểu.

 

Đáp: Theo Luận Pháp Hoa, hạ, Luận Du Già Sư Địa 80, Thanh Văn có 4 loại:

 

1. Thuyết Định Thanh Văn (còn gọi: Nhất Hướng Thú Tịch Thanh Văn, Chủng Tánh Thanh Văn): Những vị nầy tu học theo pháp Tiểu thừa và nhờ nghe pháp Tiểu thừa mà được chứng quả, sau khi chứng Tiểu quả thì không còn tiến lên cầu pháp Đại thừa. Đó là vì còn chấp vào quả vị chứng đắc ( Niết bàn ) nên họ không thể hướng đến Đại thừa.

 

2. Thoái Bồ đề Thanh Văn (còn gọi là Hồi Hướng Bồ đề Thanh Văn)

Những vị Thanh Văn nầy vốn là Bồ tát, từng phát tâm bồ đề nhiều kiếp tu tập, chợt do chán mỏi sanh tử, thoái thất tâm đại đạo mà chứng Tiểu quả.

 

3. Ứng Hóa Thanh Văn (còn gọi Biến Hóa Thanh Văn): Các vị Thanh Văn nầy vốn là chư Phật, Bồ tát, trong ẩn hạnh chơn thật, ngoài hiện thân Thanh Văn có khả năng dẫn dắt hai loại Thanh Văn nói trên trở về Đại thừa và hóa độ tất cả chúng sanh được vào Phật đạo.

 

4. Tăng Thượng Mạn Thanh Văn: Những vị tự xưng mình đã được pháp tăng thượng, khinh mạn chê bai người khác, loại Thanh Văn nầy chán ghét sanh tử , ưa thích niết bàn, nhờ tu tập giới, định, huệ hơi có sở đắc liền cho là chứng quả, đó là hạng người chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà nói đã chứng, nên gọi là Tăng Thượng Mạn Thanh Văn.

 

99. Bốn thứ đồ vật của chúng tăng.

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, con có đọc một đoạn văn kinh, trong đó có nói đến bốn thứ đồ vật ở trong chùa mà chúng tăng thường dùng. Tuy nhiên, đoạn kinh đó không có giải thích nên con không hiểu bốn thứ đó như thế nào? Vậy xin thầy hoan hỷ giải thích cho chúng con được rõ. Kính cám ơn thầy.

 

Đáp: Tứ chúng tăng vật, còn gọi là Tứ chủng thường trụ. Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang trang 7104 giải thích như sau:

 

Bốn loại tăng vật được phân biệt theo tính chất thường trụ hoặc hiện tiền của chúng.

 

1. Thường trụ thường trụ vật: Chỉ cho bếp kho, tư xá, các vật, hoa trái, cây cối ruộng vườn ... mà đại chúng dùng chung. Thể của các vật nầy là chung cho chư tăng mười phương, không thể chia dùng nếu thuộc về thường trụ vật.

 

2. Thập phương thường trụ vật: Chỉ cho những vật như cơm bánh... thường cúng dường cho đại chúng. Thể của các vật nầy là chung cho chư tăng mười phương, nhưng chỉ có chư tăng ở bản xứ được thọ dụng.

 

3. Hiện tiền hiện tiền vật: Vật riêng của các Tỳ kheo, như y phục, thuốc men là vật hiện tiền của hiện tiền tăng.

 

4. Thập phương hiện tiền vật: Như kinh sách đồ vật của vị tăng qua đời để lại được chia cho mười phương tăng, là vật sở thuộc của các Tỳ kheo hiện tiền khi chia nên gọi là thập phương hiện tiền vật.

 

100. Tứ chủng vãng sanh

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con nghe nói có bốn loại vãng sanh, nhưng con không biết bốn loại vãng sanh đó như thế nào? Kính mong thầy hoan hỷ giải thích cho con rõ.

 

Đáp:  Theo Tây Phương chỉ Nam Sao, hạ, phần cuối nói về niệm Phật đắc thất nghĩa có nêu ra bốn loại vãng sanh như sau:

 

1. Noi theo tướng trạng vãng sanh Tịnh độ Di Đà thì có thể chia làm 4 thứ là:

 

a. Chánh niệm vãng sanh: Người nầy lúc bình thường niệm Phật, lúc lâm chung cũng giữ chánh niệm mà vãng sanh.

 

b. Cuồng loạn vãng sanh: Người một đời tạo tác ác nghiệp, lúc lâm chung bị lửa mạnh ở địa ngục đến đốt cháy mà cuồng loạn, nhưng nhờ sự chỉ dạy của thiện tri thức nên trong lúc cuồng loạn niệm Phật được 1 tiếng hay 10 tiếng liền được vãng sanh về Tịnh độ Cực lạc.

 

c. Vô ký vãng sanh: Người nầy lúc bình sanh đã phát tín tâm quy mạng, lúc lâm chung tuy do tâm thần suy nhược mà trở thành vô ký (chẳng phải thiện, chẳng phải ác) nên không thể niệm Phật, nhưng do nghiệp nhân niệm Phật ở quá khứ cũng được vãng sanh.

 

d. Ý niệm vãng sanh: Khi hành giả lâm chung, tuy không niệm Phật ra tiếng nhưng trong tâm niệm Phật A Di Đà cũng được vãng sanh.

 

2. Y cứ vào hạnh khẩu xưng niệm Phật lúc bình sanh, phẩm loại quyết định vãng sanh được chia làm 4 thứ là: Tha lực niệm Phật vãng sanh, Chân thật niệm Phật vãng sanh, Chánh kiến niệm Phật vãng sanh và Trực tâm niệm Phật vãng sanh, hành giả thực hành bốn thứ nầy thì nhất định vãng sanh. Trái lại, hành giả tự lực niệm Phật, giả danh niệm Phật, ác kiến niệm Phật, mạn tâm niệm Phật, thì không chắc chắn vãng sanh (Từ Điển Phật Học Huệ Quang, trang 7116)