Câu Hỏi 61-80

Thứ Sáu, 20 Tháng Năm 201611:14 CH(Xem: 7260)
Câu Hỏi 61-80

61. Làm sao để trả lễ khi đã khấn vái?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, lúc trước con sinh em bé xong, con có cầu xin Phật trời phù hộ cho mẹ tròn con vuông, con sẽ ăn chay một tháng. Nhưng thời gian sau nầy, sức khỏe con yếu dần, con đã ăn trả lễ nhưng được 3 ngày thì bệnh rất lâu mới khỏi, con không thể tiếp tục ăn đủ một tháng như đã khấn vái. Cầu xin thầy chỉ dẫn cho con, nếu con không đủ sức khỏe để ăn chay thì con phải cúng bái và trả lễ bằng cách nào? Con thật sự không dám vô lễ với Phật trời nên con xin thầy chỉ dẫn cho con.

 

Đáp: Sự phát nguyện nào cũng đều phát xuất từ tấm lòng chân thành tha thiết. Phần nhiều, người ta vì sự lợi ích cho riêng mình và gia đình mình mà phát nguyện. Trường hợp của Phật tử cũng không ngoại lệ. Vì Phật tử muốn sau khi sanh sản mẹ và con đều được bình an mạnh khỏe, nên Phật tử mới phát nguyện trường chay một tháng. Phật tử đã khấn vái cầu xin Phật trời phù hộ cho mẹ tròn con vuông. Điều cầu nguyện đó tuy có mang tính ích kỷ, nhưng đó cũng là điều tốt. Tuy nhiên, Phật tử không làm đúng theo những gì mà mình đã phát nguyện. Lúc đầu Phật tử cũng muốn ăn chay trọn tháng, nhưng vì bệnh hoạn sức khỏe yếu kém, nên Phật tử mới ăn chỉ có ba ngày rồi ngã bệnh rất lâu mới khỏi. Do đó, Phật tử không thể ăn tiếp tục cho tròn một tháng như lời Phật tử đã khấn nguyện. Phật tử hỏi: "Nếu Phật tử không đủ sức khỏe để ăn chay thì Phật tử phải cúng bái và trả lễ bằng cách nào?"

 

Xin thưa, Phật tử đâu cần phải cúng bái trả lễ, vì Phật trời đâu có ăn hối lộ của ai mà Phật tử phải lo lót cúng bái. Hơn nữa, Phật trời cũng đâu có quở phạt trách cứ Phật tử điều gì, sao Phật tử muốn cúng bái trả lễ? Phật tử đã nguyện mà không giữ tròn lời nguyện hứa của mình thì đó là lỗi ở nơi Phật tử. Đó là lỗi không giữ đúng lời khấn nguyện đối với các bậc tôn kính. Phật tử nên nhớ Phật trời không có bắt lỗi ai cả. Vì đâu có Phật trời nào bắt buộc Phật tử phải khấn nguyện như thế. Do Phật tử vì muốn cho mẹ tròn con vuông mà phát nguyện. Tuy lúc ngã bệnh Phật tử không ăn trường chay tròn tháng được, nhưng khi hết bệnh thì Phật tử cũng có thể ăn tiếp tục để cho tròn lời khấn nguyện của mình. Phật tử thử nghĩ, khi Phật tử hứa với ai điều gì mà Phật tử không làm tròn lời hứa đó, Phật tử có cảm thấy áy náy ray rứt khó chịu không? Đó chỉ là lời hứa thường tình thôi mà lương tâm đạo đức của mình còn không cho phép mình thất hứa, nói chi đến lời hứa với những bậc cao quý tôn kính như Phật trời.

 

Thật ra, ăn chay hay ăn mặn chẳng qua đó cũng chỉ là một thói quen thôi. Có người cho rằng, ăn chay không đủ sức khỏe, đó là một quan niệm thành kiến sai lầm. Người nói đó có thể có hai lý do: Một là, vì duyên nghiệp thói quen ăn mặn của họ khá nặng nên họ không thích ăn chay. Hai là, họ chưa tìm hiểu rõ về phương pháp ăn chay cho đúng cách có nhiều sinh tố dinh dưỡng. Nghĩa là họ chưa biết ăn chay đúng theo phương pháp dưỡng sinh. Nếu như chúng ta ăn chay đúng theo sự chỉ dẫn của phương pháp dưỡng sinh thì, sức khỏe của chúng ta không những không giảm sút mà còn sẽ tăng lên gấp bội, chớ không phải bạt nhược yếu đuối như người ta lầm tưởng. Trừ phi, người ta ăn chay theo kiểu trụi trậm qua loa cho qua bữa. Ăn chay như thế thì thử hỏi làm sao mà có đủ chất dinh dưỡng? Khi thiếu chất dinh dưỡng thì cơ thể mới suy yếu bịnh hoạn. Người chưa quen ăn chay, thì họ cho là ăn chay rất khó. Nhưng khi ăn chay quen rồi họ không chịu nổi mùi tanh hôi của thịt cá. Đó là một sự thật mà ai đã từng ăn chay trường nhiều năm rồi cũng phải công nhận như thế.

 

Phật tử thấy, có nhiều người ăn chay trường từ nhỏ cho đến già mà sức khỏe của họ vẫn tốt. Nếu bảo do ăn chay mà sanh ra bịnh hoạn yếu đuối, vậy thì thử hỏi những người ăn mặn (nói cho đúng là ăn mạng, giết mạng sống loài vật để ăn) họ có đau yếu bịnh hoạn không? Hay là họ còn mang nhiều chứng bịnh nan y nhiều hơn là những người ăn trường chay nữa. Bởi ăn những ngũ cốc rau trái thuần khiết, nó ít có độc tố hơn là các loại thịt cá. Điều nầy, hiện nay các nhà chuyên nghiên cứu thực phẩm phân chất trong các loại thịt động vật đều thấy rõ như thế. Ở đây, không phải đề tài nói về ăn chay và sự lợi ích của nó, nên chúng tôi không có đi sâu vào vấn đề lý giải dong dài. Phật tử muốn hiểu rõ hơn về vấn đề nầy, thì Phật tử nên tìm đọc các sách nói về cách thức chỉ dẫn ăn chay thì Phật tử sẽ được hướng dẫn chỉ bảo nhiều hơn.

 

Còn vấn đề bịnh hoạn đau yếu, đâu phải chỉ riêng gì Phật tử mới có, mà phàm là con người thì ít nhiều gì ai cũng không tránh khỏi. Bịnh là một trong bốn nỗi thống khổ lớn của con người. Sanh, già, bịnh, chết là một quy trình luật định tự nhiên, không có loài nào thoát ra được. Bịnh hoạn đau yếu là một nghiệp quả mà chính do con người đã tạo ra. Chẳng qua khác nhau ở mức độ nặng hoặc nhẹ đó thôi. Theo luật nhân quả hễ có vay ắt phải có trả. Đời nay, sở dĩ mình bị bịnh hoạn đau yếu liên miên là bởi do đời trước hoặc hiện đời mình đã sát hại sinh vật quá nhiều. Như trường hợp của Phật tử đau yếu bịnh hoạn sức khỏe kém như thế, âu cũng bởi do đời trước hoặc hiện đời sát hại sinh vật nhiều nên nay mới bị trả cái quả báo là đau bịnh như vậy. Biết thế, thì mình nên cố gắng làm lành, lánh dữ, trì trai, giữ giới, thường xuyên niệm Phật, ăn năn sám hối, để cho nghiệp chướng tội nặng chóng được tiêu mòn. Nói thế để Phật tử thấy rằng, không phải ăn chay là sức khỏe yếu kém bịnh hoạn đâu.

 

Trường hợp như chư Tăng Ni ở trong chùa có vị trường chay từ thuở nhỏ mãi cho đến khi tuổi già mà sức khỏe của quý ngài vẫn tốt. Có người thọ mạng hơn trăm tuổi mà da dẻ thần sắc vẫn tươi nhuận hồng hào và trí tuệ vẫn luôn minh mẫn sáng suốt. Thế thì có phải ăn chay là sức khỏe yếu kém bịnh hoạn chăng? Dĩ nhiên, ngoài yếu tố trường chay ra, các ngài còn gắng công nỗ lực tu tập công phu thiền định nữa.

 

 Tóm lại, nếu Phật tử không muốn ray rứt khó chịu trong lòng, thì tôi thành thật khuyên Phật tử, thay vì Phật tử ăn chay trọn một tháng như đã khấn vái, nhưng Phật tử vì lý do sức khỏe yếu kém, nên Phật tử  cũng có thể phát nguyện ăn chay kỳ. Nghĩa là một tháng Phật tử nguyện ăn mấy ngày cũng được. Khi Phật tử ăn chay kỳ quen rồi, thì chừng đó Phật tử có thể tiến lên ăn tròn một tháng để giữ đúng theo như lời mình đã khấn nguyện. Ngoài việc ăn chay ra, Phật tử cũng nên tu tạo nhiều phước lành ở nơi ba nghiệp: "Thân, Khẩu, Ý". Nghĩa là Phải làm lành lánh dữ và tùy theo khả năng hoàn cảnh của mình mà làm các việc từ thiện cứu giúp cho những người bất hạnh. Đó cũng là cách để Phật tử tài bồi thêm phước đức có lợi lạc cho mình và người. Như thế, thì cũng rất là tốt. Bởi túc duyên nghiệp quả của mỗi người mỗi khác. Muốn cho tiêu tội sanh phước, thì Phật tử cũng nên thành tâm sám hối. Nhờ đó mà nghiệp chướng của Phật tử mỗi ngày mỗi được tiêu dần và phước lành ngày càng tăng trưởng. Đó là lời khuyên thành thật của chúng tôi.

 

Tóm lại, Phật tử yên tâm không có gì phải lo sợ. Phật tử cố gắng gây tạo nghiệp lành để cho đời sống luôn được an bình và hạnh phúc.

 

Kính chúc Phật tử vạn sự an khang kiết tường như ý.

 

62. Có nên tin vào bói toán và phong thủy không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con là nữ tuổi nhâm tuất con đang có dự tính mua một ngôi nhà hướng đông nam. Con xem trên sách báo thì hướng nầy không hợp với tuổi con. Nhưng nghe anh bạn là trưởng ban từ thiện mà con tham gia (anh nầy tu rất tinh tấn, đọc rất nhiều kinh sách) nói rằng, hướng nhà không có liên quan gì tới tuổi hết. Họa hay phúc đều do mình gieo nhân và nhận quả. Vậy bạch thầy cho con xin được tỏ tường? Kính chúc thầy sức khỏe luôn dồi dào.

 

Đáp: Vấn đề bói toán hay xem phong thủy đây thuộc về lĩnh vực theo kinh nghiệm tín ngưỡng thuần phát của dân gian. Đối với những vấn đề nầy trong Kinh Di Giáo, Đức Phật đã cấm tuyệt người xuất gia không nên làm. Bởi nó không ích lợi gì cho việc tu học giác ngộ và giải thoát cả. Riêng về phong thủy nó là một học thuyết đã có từ lâu đời. Môn học nầy chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió (phong), hướng khí, mạch nước (thủy) có ảnh hưởng đến đời sống họa phúc của con người. Đây cũng là một môn học rất phức tạp, kết hợp nhiều yếu tố chung quanh vấn đề phong thủy để đoán định sự kiết hung, họa phúc, hanh thông v.v... mà nó thường xảy ra trong đời sống. Vì vậy nó không phải là một vấn đề đơn giản mà ai cũng có thể thông suốt hết được. Thú thật, đây không phải là lĩnh vực chuyên môn của chúng tôi, nên chúng tôi xin được miễn bàn dong dài về vấn đề nầy.

 

Dựa theo câu hỏi của Phật tử và qua lời nói của một người bạn mà Phật tử nói, ông bạn nầy rất tinh tấn tu tập và đọc rất nhiều kinh sách, đã cho Phật tử một kết luận khẳng quyết là vấn đề tuổi tác không liên quan gì đến hướng nhà. Họa hay phúc đều do mình gieo nhân và nhận quả. Qua lời nói khẳng quyết đó, chứng tỏ ông ta là người Phật tử tin sâu vào thuyết nhân quả báo ứng trong nhà Phật. Và niềm tin nầy rất phù hợp với chân lý. Trong giáo lý nhà Phật gọi niềm tin đó là chánh tín hay chánh kiến. Như chúng tôi đã nói, niềm tin đối với con người thật là phong phú đa dạng. Tuy nhiên, bất cứ niềm tin nào cũng phải được đặt trên nền tảng chân lý nhân quả. Có thế, thì niềm tin đó mới thật sự có giá trị và mới được gọi là chánh tín, chánh kiến. Ngược lại, là chúng ta sẽ rơi vào quỹ đạo của mê tín tà kiến.

 

Riêng bản thân chúng tôi, lúc nào chúng tôi cũng tôn trọng niềm tin của mọi người. Ngay cả những người không có một niềm tin vào bất cứ tôn giáo nào. Dù họ không có đặt định niềm tin vào tôn giáo nào, nhưng ít ra họ cũng vẫn có một niềm tin nào đó. Nói thế để Phật tử thấy rằng, đối với người Phật tử chúng ta không thể tin một điều gì mà không có sự chứng nghiệm bởi chân lý nhân quả. Có thể nói, bất cứ hiện tượng nào trên thế gian nầy, cũng không thoát ngoài luật định nhân quả. Giáo lý nhân quả hướng dẫn và đặt định cho con người có một niềm tin vững chắc trên chiều hướng thăng hoa trong cuộc sống. Vì thế, trong nhà Phật có nêu ra sáu lĩnh vực để cho con người dựa vào đó để xây dựng và phát triển niềm tin. Sáu lĩnh vực đó là: "Tin tự, tin tha, tin nhân, tin quả, tin sự và tin lý". Qua sáu lĩnh vực nầy nếu phải giải thích cho cặn kẽ thì rất là dài dòng. Ở đây, chúng tôi chỉ nói qua một cách đại khái sơ lược thôi. Nếu có dịp Phật tử nên tìm hiểu rõ hơn.

 

- Tin tự là tin mình sẵn có tánh Phật. Tuy sẵn có, nhưng vì bị những thứ vô minh phiền não che đậy nên Phật tánh chưa hiển lộ được. Khi vô minh phiền não không còn thì thể tánh thanh tịnh sáng suốt tự tâm  sẽ hiện bày. Như vàng ròng ra khỏi quặng nhơ vậy. Chúng ta tin chắc như vậy thì gọi là tin tự.

 

- Tin tha là chúng ta tin có chư Phật, Bồ tát tức những vị đã thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Nếu là người tu Tịnh độ, thì chúng ta tin có Phật Di Đà và cảnh giới Cực lạc. Nói gọn là chúng ta tin có chánh báo và y báo.

 

-Tin nhân, tin quả là tin rằng mình gieo hạt giống nào thì sẽ kết thành quả nấy. Tin chắc nhân và quả một mảy may không hề sai chạy. Như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Tùy hình và tiếng như thế nào thì bóng và âm vang như thế ấy.

 

- Tin Sự là chúng ta tin vào phần sự tướng, vì tướng không ngoài lý tánh mà có. Như tin thế giới Cực lạc do đức Phật Thích ca Mâu Ni giới thiệu là có thật. Bởi lời Phật nói không có giả dối hay lường gạt chúng sanh. Vì Phật là đấng chơn thiệt ngữ, lời Phật nói là Thánh giáo lượng. Nếu hành giả tu theo pháp môn niệm Phật thì tin vào Sự nhất tâm là có thật.

 

- Tin Lý là tin nơi mỗi chúng ta đều sẵn có Lý nhất tâm. Đó là một tâm thể sáng suốt hiện tiền vượt ngoài đối đãi. Đạt được tâm thể nầy gọi là đạt được Lý nhất tâm. Nói gọn, ta tin rằng Lý không ngoài Sự và Sự không ngoài Lý. Thể của vạn pháp là Nhất như. Tất cả đều có chung một thể tánh bình đẳng. Tin như thế gọi là tin "Sự Lý" viên dung vậy.

 

Đó là sáu lĩnh vực mà chúng ta y cứ vào đó để xây dựng củng cố niềm tin thật vững chắc. Tin như thế, là ta tin đúng hướng chân lý. Dựa vào niềm tin đó để ta thể hiện ứng dụng vào đời sống thực tế hằng ngày.

 

Kính chúc Phật tử có một niềm tin đúng theo chánh pháp để được nhiều lợi lạc vậy.

 

 63. Đức Phật Di Đà và cảnh giới Tây phương có thật không?

 

Hỏi: Kính thưa Thầy, con có điều không hiểu xin Thầy từ bi cho con hỏi: Đức Phật Di Đà và cảnh giới Tây phương có thật không?

 

Đáp: Vấn đề nầy, nếu căn cứ vào lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Bổn Sư của chúng ta, thì xin thưa xác quyết là có thật. Đã tin Phật, tất nhiên là ta phải tin vào lời dạy của Phật. Bởi lời Phật nói là Thánh giáo lượng hay còn gọi là đấng Chơn thiệt ngữ. Thử hỏi đã là Phật thì làm gì có chuyện nói dối lường gạt chúng sinh? Đã lường gạt thì sao gọi là Phật? Do đó, ta tin lời Phật dạy là có thật, không có nghi ngờ gì cả.

 

Trong Kinh A Di Đà đức Phật đã nói rất rõ về vấn đề nầy. Đức Phật đã diễn tả về Chánh báo và Y báo một cách rất cụ thể rõ ràng. Về Chánh báo đức Phật giới thiệu đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ ở cõi Cực lạc và hiện đang thuyết pháp. Ngoài đức Phật A Di Đà ra còn có các vị Bồ tát và các bậc thượng thiện nhơn đã vãng sanh về Cực lạc. Về Y báo, thì đức Phật đã diễn tả nhiều chi tiết về cảnh giới Cực lạc. Những hiện tượng ao, hồ, đất, đá, hoa, lá, chim, cây, nước v.v... tất cả đều được kết thành bằng bảy thứ báu. Nói chung, đó là một thế giới hay một xã hội được xây dựng do công đức của đức Phật Di Đà tạo nên. Vì vậy, nên gọi cõi đó là Cực Lạc hay Tịnh độ. Đó là đứng về phần sự tướng mà nói. Vì câu hỏi của Phật tử là câu hỏi về phần sự tướng của cõi Tịnh độ. Cho nên, chúng tôi chỉ dẫn chứng trong Kinh A Di Đà nêu ra đại khái để cho Phật tử biết qua. Nếu Phật tử muốn hiểu rõ thêm, thì tôi thành thật khuyên Phật tử nên tìm đọc Kinh A Di Đà cũng như các kinh nói về cõi Tịnh độ qua phần sự tướng. Vì có hiểu rõ lời Phật dạy như thế, thì Phật tử mới không hoang mang hay hồ nghi về cõi Tịnh độ. Đó cũng là phương cách xây dựng một niềm tin vững chắc để niệm Phật cầu sanh về Cực lạc. Nếu không, thì cũng rất trở ngại cho việc vãng sanh của Phật tử sau khi lâm chung.

 

64. Khi người mắc bệnh nan y ở giai đoạn cuối phải xử lý thế nào mới hợp với chánh giáo và phong tục?


Hỏi:
Kính Bạch Thầy, Phật tử mắc bệnh nan y giai đoạn cuối hay có thân nhân cao tuổi thì cả gia đình nên có thái độ như thế nào cho đúng chánh pháp và hợp với phong tục Việt Nam, không mê tín, không mang tội bất hiếu và lại thích hợp với môi trường xã hội và y tế của Úc? Ví dụ tắt máy trợ sinh để kéo dài đời sống thực vật của thân nhân có phải là bất hiếu không? Gia đình có nên cởi mở bàn về vấn đề này cũng như hậu sự khi người bệnh còn minh mẫn không? Khi cha mẹ cao tuổi muốn bàn về việc đó, thì con cái có nên né tránh không? Con cháu đồng ý bàn về việc đó có phải là bất hiếu không?

Đáp: Trong câu hỏi của Phật tử chúng tôi thấy Phật tử đã nêu ra năm vấn đề mà Phật tử muốn biết. Qua năm vấn đề đó, chúng tôi xin được lần lượt trả lời đại khái như sau:

1. Phật tử thắc mắc, nếu Phật tử có người thân mắc phải chứng bệnh nan y ở giai đoạn cuối hoặc thân nhân cao tuổi thì cả gia đình nên có thái độ như thế nào cho đúng chánh pháp và hợp với phong tục Việt Nam, không mê tín, không mang tội bất hiếu và lại thích hợp với môi trường xã hội và y tế của Úc?


Đối với người mắc phải chứng bệnh nan y ở giai đoạn cuối, nếu bác sĩ đã bó tay không còn phương cách nào chữa trị được nữa, thì thân nhân phải nên chuẩn bị tinh thần và sắp xếp mọi việc cho phần hậu sự. Tuy nhiên việc làm nầy chỉ những người trong gia đình bàn thảo với nhau thôi, tuyệt đối không cho người bệnh nặng sắp lâm chung biết. Điều quan trọng hơn nữa, là những thành viên trong gia đình không nên làm cho người bệnh trái ý nghịch lòng. Bởi ở giai đoạn cuối nầy, bệnh nhân phải chịu đựng sự đau nhức hoành hành của thân xác. Đồng thời, tinh thần của bệnh nhân luôn bị bấn loạn rất hoang mang lo âu sợ hãi. Vì thế, người cận kề chăm sóc không nên có thái độ hoặc lời nói làm cho bệnh nhân phải tức tối buồn giận. Điều nầy, rất ảnh hưởng cho cận tử nghiệp không tốt của bệnh nhân.  Muốn cho cận tử nghiệp của bệnh nhân được tốt đẹp, thì những thành viên trong gia đình cũng như những người đến thăm, tuyệt đối, không nên nói điều gì làm cho bệnh nhân khởi sanh phiền não, mà chỉ dốc lòng khuyên bệnh nhân niệm Phật. Nếu phải nói, thì nên nói những lời hòa ái tốt đẹp đem lại lợi ích cho bệnh nhân.  Tốt hơn hết là nên hướng dẫn khuyên bệnh nhân nên nhiếp tâm niệm Phật cùng với những người trợ niệm. Đây là việc làm rất cần thiết mà những người thân trong gia đình không nên coi thường. Nếu thân nhân trong gia đình hết lòng thương bệnh nhân và muốn cho bệnh nhân sau khi bỏ báo thân sanh về cảnh giới an lành, thì chỉ còn có cách là cùng nhau trợ lực nhiếp tâm niệm Phật mà thôi.


Còn đối với người thân cao tuổi thì bổn phận làm con cháu ta phải hết lòng phụng dưỡng, vì đó là chúng ta đã thể hiện được tấm lòng báo hiếu thâm ân đối với các đấng sanh thành giáo dưỡng. Một mặt, là phải lo cung phụng về phần vật chất trong vấn đề ăn mặc v.v... Mặt khác, là ta cũng phải giúp cho ông bà cha mẹ về phần tinh thần. Phần tinh thần là nên khuyên ông bà cha mẹ tin kính Tam bảo, tu tâm, dưỡng tánh, chí thành niệm Phật... Nhất là ta không nên có thái độ hay lời nói làm cho ông bà cha mẹ phải buồn khổ giận tức vì ta. Đó là một cách báo ân theo tinh thần hiếu đạo mà từ ngàn xưa tổ tiên ta đều quan tâm đề cao thức nhắc con cháu. Bởi tri ân và báo ân là hai đức tánh căn bản của đạo làm người. Mất đi hai đức tánh đạo đức căn bản nầy, thì ta không còn xứng đáng làm người nữa.


Nếu như ông bà cha mẹ già yếu bệnh hoạn mà trong nhà con cháu không thể sớm hôm lo phụng dưỡng được, thì con cháu cũng có thể đưa họ vào trong nhà dưỡng lão. Điều nầy xứ nào cũng có. Riêng ở Úc, thì vấn đề nầy cũng rất tiện lợi cho việc lo lắng chăm sóc. Bởi con cháu vì bận rộn với công ăn việc làm hoặc không có khả năng chăm sóc phụng dưỡng được, nên bất đắc dĩ phải làm như thế thôi, chớ tận thâm tâm, thì không ai muốn như thế cả. Ở nhà, làm sao có đủ phương tiện để lo chăm sóc chu đáo được? Tuy nhiên, như đã nói, đây là một việc làm bất đắc dĩ, kỳ thật theo phong tục của người Việt Nam chúng ta thì, tình trạng nầy xưa nay ít có xảy ra.  Phần nhiều là con cháu để ông bà cha mẹ trong nhà để lo báo đáp phụng dưỡng mà thôi. Đó là một truyền thống văn hóa hiếu đạo cao đẹp lâu đời của dân tộc Việt Nam vậy.


2. Phật tử hỏi: Tắt máy trợ sinh để kéo dài đời sống thực vật của thân nhân có phải là bất hiếu không?


Xin thưa, việc rút ống dưỡng khí tức tắt máy trợ sinh cho bệnh nhân để cho bệnh nhân được ra đi an ổn, điều đó không có gì gọi là bất hiếu cả. Tuy nhiên, thường thì người ta có quan niệm hễ còn nước là còn tát. Đồng ý là như vậy. Nhưng khi nước đã cạn hết rồi thì còn lấy đâu nữa mà tát. Nghĩa là, khi ta biết rõ bệnh nhân không thể nào kéo dài sự sống được nữa thì, dẫu có kéo dài thêm mạng sống như người thực vật thì cũng chỉ làm đau khổ cho bệnh nhân thêm mà thôi. Thật chẳng có ích lợi gì! Thật tình, đâu có ai nhẫn tâm muốn nhìn thấy cảnh tượng người thân yêu thương của mình phải nhắm mắt xuôi tay mà ra đi. Ai cũng muốn kéo dài duy trì thêm mạng sống cho người thân của mình. Nhưng nghiệp trần đã mãn, thì còn kéo dài thêm chi nữa. Thế nên, theo tôi, thì việc tắt máy trợ sinh như Phật tử đã hỏi, thì không có gì gọi là bất hiếu cả. Phật tử đã nói sống mà như người thực vật, thì thử hỏi sống để làm gì? Sự sống đó có khác gì như đã chết rồi, chỉ chưa có đem chôn đó thôi.


3. Gia đình có nên cởi mở bàn về vấn đề nầy cũng như hậu sự khi người bệnh còn minh mẫn không?


Việc bàn hậu sự cho bệnh nhân khi họ còn minh mẫn, theo tôi, thì đây là điều rất cần thiết. Nhưng khi bàn thảo con cháu không nên tranh cãi hơn thua mà tất cả phải tôn trọng thuận theo ý kiến tối hậu của bệnh nhân. Tuy nhiên, vấn đề nầy còn tùy theo quan niệm của người bệnh cũng như của những thành viên trong gia đình. Mặc dù chết là một sự thật, không ai có thể trốn tránh được. Nhưng người ta vẫn sợ khi nói đến cái chết. Ngược lại, khi xưa ông bà ta, có người còn lo sắp xếp việc hậu sự cho bản thân mình trước. Như sắm sẵn cái cổ thọ để trong nhà và quần áo mặc để tẩn liệm v.v... Bởi "sanh ký tử quy" tức sống gởi thác về, là một sự thật mà ta cần phải chấp nhận. Hiểu được lẽ sanh tử thường nhiên, nên có người họ không sợ hãi trước cái chết. Vì đó là con đường cuối nẻo đường trần ai cũng phải đến. Có lo sợ cũng không tránh khỏi. Đó là một đức tính tâm lý đáng kính phục. Có bàn thảo di chúc sắp xếp hết mọi việc, thì người ra đi mới được an thoát nhẹ nhàng. Những thân nhân trong gia đình cứ y theo lời di chúc của bệnh nhân mà thực hiện cho đúng không được trái lời. Vì trái lời di chúc của bệnh nhân rất có ảnh hưởng đến hương linh của người mới mất. Thay vì được vãng sanh như ý muốn, nhưng trái lại vì một niệm sân hận giận tức mà phải bị sa đọa. Điều nầy rất quan yếu mà những người thân trong gia đình phải hết sức thận trọng. Đó cũng là một phương cách mà con cháu trả hiếu cho ông bà cha mẹ vậy.


4. Khi cha mẹ cao tuổi muốn bàn về việc đó, thì con cái có nên né tránh không?


Như đã nói, đây là một việc nên bàn thảo kỹ càng có gì phải tránh né. Vấn đề hậu sự lo phần tang lễ cho cha mẹ cũng là một vấn đề hết sức hệ trọng. Do đó, cần phải có sự thống nhứt giữa cha mẹ và con cái. Bởi đây cũng là một phần có tác động ảnh hưởng đến hương linh của người quá cố. Nếu mọi việc tang lễ trên dưới đều nhất trí thuận hòa không có gì mâu thuẫn chống trái, thì tốt đẹp biết bao. Tuy đây là việc lo hơi xa, nhưng cũng rất là cần thiết. Người xưa nói: "Nhơn vô viễn lự, tắc hữu cận ưu". Nghĩa là người không lo xa, ắt có buồn gần. Đã có lợi ích như thế, thì con cái cần nên góp phần thảo luận chớ sao lại tránh né? Chẳng những không tránh né mà con cái còn phải tích cực góp phần vào công việc lo chung nầy. Được thế, mới phải đạo làm con vậy.


5. Con cháu đồng ý bàn về việc đó có phải là bất hiếu không?


Câu hỏi nầy như đã trả lời ở câu hỏi trên, không có gì là bất hiếu mà trái lại còn là chí hiếu nữa.


65. Treo tranh Phật trong phòng riêng có lỗi không?


Hỏi
: Kính Bạch Thầy, khi đông người chung sống trong một nhà, mỗi người một ý, có người theo đạo Phật, có người chưa muốn theo. Nếu một cá nhân muốn để một tranh Phật trong phòng riêng (phòng ngủ) thì có được không?


Đáp:
Vấn đề nầy, theo tôi, thì không có gì là trở ngại không được. Bởi việc tín ngưỡng là quyền quyết định chọn lựa của mỗi cá nhân. Không ai có quyền bắt buộc hay ngăn cản ai cả. Theo một tôn giáo hay không đó là quyền tự do của mỗi người. Tuy nhiên, mình cũng phải tôn trọng lẫn nhau. Người có tôn giáo không phải vì thế mà ta lại khinh thường người không có tôn giáo. Ít ra, họ cũng còn có đạo làm người của họ. Do đó, ta không có ý niệm khinh thường ai cả. Nhất là những thành viên sống chung trong một mái ấm gia đình, mỗi người càng phải tôn trọng niềm tin yêu thương lẫn nhau nhiều hơn.

Như Phật tử đã nói, có người chưa muốn theo, chớ không hẳn là họ quyết không theo. Chưa muốn theo có nghĩa là họ còn cân nhắc lựa chọn một tôn giáo nào đó phải thích hợp với họ. Bởi vấn đề chọn lựa để quyết định theo một tôn giáo cũng rất là hệ trọng. Vì đó là một quyết định cao cả trong đời sống tâm linh. Khi đã chọn lựa cân nhắc kỹ càng rồi, chừng đó họ mới có quyết định. Như vậy, có thể nói họ là mẫu người sống có ý thức và rất kỹ cương mẫu mực. Một khi họ đã quyết định theo một tôn giáo nào đó rồi, thì họ tôn thờ tín ngưỡng trọn đời theo tôn giáo đó.


Trở lại câu hỏi của Phật tử, nếu Phật tử muốn treo một một bức tranh Phật trong phòng riêng để hằng ngày ra vô chiêm ngưỡng, điều đó thì không có gì sai trái. Tuy nhiên, nếu Phật tử đã có gia đình rồi, hai vợ chồng sống chung trong một căn phòng, theo tôi, thì điều nầy có vẻ bất tiện không nên. Bởi treo ảnh Phật như thế e rằng, khi vợ chồng chăn gối thì Phật tử sẽ mang tội thất kính. Ngược lại, nếu Phật tử còn độc thân thì điều nầy không có gì là trở ngại cả. Tốt nhứt là Phật tử nên chọn treo bức tranh Phật một nơi cho thích hợp.


Kính chúc Phật tử có niềm tin vững chắc vào Phật pháp để hằng ngày tu tập chóng đạt thành sở nguyện.


66. Một người chưa bỏ được rượu có quy y thọ giới được không?


Hỏi: Kính Bạch Thầy, một người bạn của con tôn kính đức Phật, thích học Phật và phát triển đời sống tâm linh nhưng lại chưa muốn quy y. Bạn ấy nêu lý do là bạn ấy thích uống rượu bia và cho là tự biết giới hạn thế nào là uống đủ. Bạn ấy chưa thấy Giới thứ năm có đủ tính thuyết phục. Bạch Thầy, thứ nhất là bạn ấy có nên Quy y Tam Bảo không? Thứ hai, bạn ấy nên hiểu Giới thứ năm thế nào cho đúng? Thứ ba, bạn ấy có nhất thiết phải thọ cả ngũ giới không? Thứ tư, nếu không thì sẽ ảnh hưởng đến sự tu tập ra sao?


Đáp:
Phật tử đã nêu ra bốn câu hỏi chung quanh về giới thứ năm mà Phật dạy người Phật tử không được uống rượu. Dựa vào bốn câu hỏi đó, tôi xin lần lượt góp chút thành ý  như sau:


1. Phật tử hỏi, bạn ấy chưa bỏ được rượu vậy bạn ấy có nên quy y Tam bảo không?


Xin thưa ngay, bạn ấy nên quy y Tam bảo không có gì trở ngại. Thiết nghĩ, trong câu hỏi của Phật tử nên thêm vào hai chữ "Thọ giới" thì có lẽ đúng hơn. Bởi vì quy y Tam bảo không chưa đủ mà còn cần phải thọ trì năm giới cấm nữa.

Xin bạn đừng lo, vì khi bạn quy y thọ giới thì Giới sư nêu ra và hỏi từng giới một, nếu giới nào bạn thấy có thể giữ được thì bạn nói Mô Phật giữ được. Khi nói như thế, thì giới thể được thành tựu. Còn giới nào mà bạn thấy không thể giữ được thì bạn nên im lặng. Sự im lặng của bạn có nghĩa là bạn không thể giữ được giới đó. Thế là giới đó không thành tựu giới thể. Song có điều, tôi thành thật khuyên bạn, bạn   nên ý thức rằng, nếu bạn không thọ thì bạn không gìn giữ. Mà không gìn giữ thì cuộc đời của bạn sẽ không có gì ngăn cản kềm thúc. Như ngựa không dây cương tha hồ chạy nhảy. Thế là đời ta trở nên phóng túng sống buông thả dễ bị sa ngã rơi vào hố thẳm của con đường trụy lạc sa đọa. Ngược lại, khi ta nhận giới rồi, thì ta mới cố gắng giữ gìn. Nhờ đó mà đời ta mới giảm bớt những khổ đau.


Như bạn biết thành phần của năm giới gồm có: 1. "Không sát sanh hại vật. 2. Không gian tham trộm cắp. 3. Không làm việc tà hạnh. 4. Không nói dối lường gạt, 5. không được uống rượu, và các thứ ma túy khác". Đó là năm nguyên lý đạo đức căn bản mà Phật đã chế ra, nhằm xây dựng con người hoàn thành nhơn cách đạo đức của một con người. Và từ đó tu tập tiến lên để chóng đạt thành Thánh quả. Cho nên, năm giới cấm Phật chế để cho người Phật tử hành trì thật tối ư quan trọng. Nếu chúng ta giữ tròn năm giới đó, thì chẳng những bản thân chúng ta được nhiều lợi lạc mà gia đình và xã hội cũng được nhiều lợi lạc. Bởi mỗi cá nhân là đơn vị của gia đình và xã hội. Cá nhân có tốt đẹp thì gia đình và xã hội mới tốt đẹp. Ngược lại, cá nhân xấu thì gia đình và xã hội xấu. Do đó, việc giáo dục xây dựng cá nhân là điều rất quan trọng trong đời sống hiện thực.


Trong năm giới đã nêu trên, khi quy y thọ giới, Giới tử phát nguyện trước Tam bảo giữ được giới nào thì tốt giới đó. Không bắt buộc phải nhận giữ hết năm giới. Thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi là: Ba la đề mộc xoa, Trung Hoa dịch là "Biệt giải thoát". Nghĩa là giữ được giới nào thì được tự do giải thoát của giới đó. Ví dụ, ta giữ giới không gian tham trộm cướp của người, thì ta được tự do đi lại không sợ ai cả. Ngược lại, nếu ta cướp giựt món đồ gì của ai là ta nơm nớp phập phồng lo sợ pháp luật sẽ truy nã bắt ta. Từ đó suy ra các giới khác cũng đều như thế. Thế nên, giới luật Phật chế là nhằm để cho con người có được tự do giải thoát. Giới luật không phải là điều ràng buộc mà nó đem lại lợi ích về mặt xây dựng đạo đức con người. Vì giới luật có công năng lợi ích như thế, cho nên ta phải phát nguyện gìn giữ cẩn trọng. Nếu không, thì đời sống của ta sẽ gây ra nhiều tội lỗi mà ta không hề hay biết.


2. Bạn ấy nên hiểu giới thứ năm thế nào cho đúng?


Rượu tuy nó không phải là chất độc hại người, nhưng nếu người ta sử dụng nó một cách thái quá, thì nó sẽ trở thành gây ra cho con người một tai hại rất lớn. Khi uống rượu quá lượng định, người ta sẽ mất hết tỉnh táo, không còn kiểm soát được tâm trí, lời nói và hành động. Từ đó, dễ gây ra tai họa cho mình và người. Đạo Phật chủ trương giác ngộ, tỉnh thức, sáng suốt, muốn thế, trước tiên chúng ta phải điềm tỉnh, minh mẫn, nếu như uống rượu vào, thì còn đâu minh mẫn sáng suốt nữa. Vì khi uống rượu vào, tâm trí cuồng loạn, mất hết bình tĩnh, dễ nóng nảy sân hận, và từ đó việc gì họ cũng dám làm, bất kể tội lỗi, không màng đến đạo đức lương tri.


Hậu quả của việc uống rượu quá chén nầy, đã gây ra biết bao nhiêu lỗi lầm sai trái.  Hằng ngày xảy ra biết bao nhiêu cảnh tượng tai nạn thương vong khủng khiếp, gây ra biết bao đau khổ cho mình và người. Đây là một họa hại cho cá nhân, gia đình và xã hội. Ngày nay, người ta thống kê những con số tai nạn xảy ra hằng ngày, phần lớn là do uống rượu quá chén say sưa gây nên. Đó là chưa nói đến tác hại của rượu gây nên những chứng bệnh nan y thật khó trị liệu và cuối cùng đưa đến cái chết.


Trong giới thứ năm, ngoài việc Phật cấm uống rượu ra, các thứ ma túy khác cũng không được sử dụng. Như á phiện, cần sa v.v... Vì những loại nầy một khi người ta đã nghiện ngập rồi, thì hậu quả đưa đến một tai hại cho con người không thể nào lường được. Có thể thời Phật ở Ấn Độ không có các chất ma túy như cần sa, á phiện... Nếu có, thì Phật cũng đã cấm và cấm nặng hơn rượu nữa. Cần nói thêm, tuy Phật cấm người Phật tử không được uống rượu, nhưng có trường hợp Phật tạm khai cho chúng ta tạm thời sử dụng mà không phạm. Đó là trường hợp khi chúng ta bị bệnh nặng hết phương cứu chữa phải cần đến thuốc rượu để trị bệnh. Trong trường hợp nầy, chúng ta được tạm dùng nhưng phải cho người khác biết rồi sau đó mới dùng. Tuy nhiên, khi hết bệnh thì không được tiếp tục dùng nữa. Nếu dùng thì phạm giới.


3. Bạn ấy có nhất thiết phải thọ cả ngũ giới không?


Như đã nói ở trên, nếu xét thấy nên thọ hết năm giới là điều tốt. Còn nếu như xét thấy mình chưa chừa bỏ được rượu ngay, thì thọ 4 giới cũng không sao. Bởi người giữ giới có toàn phần, bán phần và thiểu phần. Nếu giữ được toàn phần và giữ một cách đúng đắn nghiêm nhặt,  thì mình sẽ được lợi lạc lớn không những hiện tại mà cả đời sau nữa. Nhờ có thọ giới mình mới giữ giới. Còn không thì không có gì kềm chế, tất nhiên, sẽ dễ đưa đến hậu quả không tốt. Vì thế tôi thành thật khuyên bạn nên thọ cả năm giới là điều tốt nhất.


4. Nếu không thì sẽ ảnh hưởng đến sự tu tập ra sao?


Tất nhiên, là sẽ ảnh hưởng rất lớn trong sự tu tập. Rượu hay các thứ ma túy đều có tác dụng làm cho con người bị nhu nhược về thần kinh và tâm trí cũng không được định tỉnh, sáng suốt. Người tu rất cần sự an định sáng suốt. Khi uống rượu hay sử dụng ma túy khi đã ghiền nặng rồi thì làm sao tu tập được? Có ai uống rượu mà tụng kinh hay thiền định bao giờ không? Khi lên cơn ghiền rồi thì lo giải quyết, chớ tâm trí đâu mà nghĩ đến vấn đề tu tập. Uống rượu và các thứ ma túy không những có hại cho trí huệ đời nầy mà còn mất giống trí huệ cho đời sau nữa. Người nghiện ngập say sưa li bì thì làm sao có trí huệ sáng suốt được? Sự tu tập rất cần có tỉnh táo mới có thể đi sâu vào thiền quán được. Đó là chưa nói một khi uống rượu vào thì sẽ phạm nhiều lỗi khác. Thế thì còn gì nói đến sự tu tập để được an lạc, giác ngộ giải thoát chớ? Nếu muốn tu tập cho có kết quả, thì tốt nhất là phải cương quyết bỏ hẳn thói quen uống rượu cũng như các loại ma túy khác. Bằng không, thì rất chướng ngại cho sự tu tập lắm vậy.


67. Dùng ảnh Phật trang trí cho màn ảnh máy vi tính và điện thoại di động có được không?


Hỏi: Kính Bạch Thầy, hiện nay công nghệ thông tin và điện thoại di động rất phổ biến. Vậy các Phật tử sử dụng tranh ảnh Phật làm ảnh nền trang trí cho màn hình máy tính hay điện thoại di động có được không ạ? Một số bạn trẻ cài đặt nhạc Phật giáo hay câu niệm Phật dùng thay cho tiếng chuông điện thoại bình thường có được không ạ? Trong trường hợp nào thì được, trường hợp nào thì không ạ?


Đáp: Vấn đề sử dụng tranh ảnh Phật làm ảnh nền trang trí cho màn hình máy vi tính hay điện thoại di động, điều đó không có gì là sai trái lỗi lầm không được cả. Không những không có sai trái lỗi lầm mà còn cần được khuyến khích nên làm như thế. Vì sao? Vì đó là một hình thức nhắc nhở người sử dụng luôn nhớ đến Phật. Khi nhớ đến Phật thì tâm của chúng ta lúc đó cảm thấy an vui tươi mát. Mọi não phiền nếu có dấy lên thì đều lắng dịu lại. Hình ảnh Phật có tác dụng luôn thức nhắc chúng ta như thế. Bởi Phật là giác là người luôn sống trong tỉnh thức. Chúng ta nên bắt chước đức Phật cố gắng thực tập cho mình có đời sống tỉnh thức chánh niệm. Tôi xin đề nghị với Phật tử, mỗi khi mở máy hãy để ra vài giây nhìn ảnh Phật thật sâu lắng và nhìn bằng con mắt tuệ giác, thiền quán, chánh niệm. Cứ mỗi lần nhìn như thế ta được tăng trưởng chánh niệm thêm lên. Đây cũng là một phương cách thực tập cho ta biết cách nhìn Phật. Nhân Phật ảnh bên ngoài gợi cho ta nhớ lại ông Phật thiệt ở trong ta. Vì trong ta đã có Phật. Chánh niệm là phương cách hay nhất để ta nhận diện lại ông Phật thiệt của ta. Có thế, thì ta sẽ được lợi lạc biết bao. Cứ mỗi ngày mà ta mở máy nhiều lần thì ta có nhiều an lạc hạnh phúc. Thế thì hạnh phúc ngay trong khi ta mở máy nhìn Phật.

Phật tử hỏi: việc cài đặt nhạc Phật giáo hay câu niệm Phật dùng thay cho tiếng chuông điện thoại bình thường có được không? Trong trường hợp nào được, trường hợp nào không?

Xin thưa, việc đó trường hợp nào cũng được cả. Tùy theo sở thích của Phật tử mà cài nhạc Phật giáo hay câu niệm Phật cả hai đều được. Tuy nhiên, điều nầy còn tùy theo sở thích thói quen của mỗi người. Nếu Phật tử là người chuyên tâm tinh cần niệm Phật hằng ngày, thì thiết nghĩ, Phật tử nên cài vào câu niệm Phật thay cho tiếng chuông điện thoại bình thường thì hay hơn. Bởi đó cũng là cách thức nhắc nhở cho Phật tử nhớ đến Phật mà niệm Phật. Khi nghe tiếng niệm Phật, tất nhiên là Phật tử nhớ đến Phật ngay. Điều quan trọng là khi nghe tiếng niệm Phật vang lên, Phật tử chớ vội mở máy liền. Tôi xin đề nghị với Phật tử là hãy để cho máy niệm Phật vài tiếng thì mới mở máy. Đó cũng là cách thực tập cho mình có được chánh niệm. Nhất là mình có thêm sự điềm đạm trầm tỉnh hơn. Tiếng niệm Phật hay tiếng nhạc đều có công dụng thức nhắc chúng ta hãy trở về với thực tại bây giờ và ở đây. Ta không để tâm ta phiêu lưu vào trong hai ngục tù giam hãm: quá khứ và tương lai. Ta hãy thực tập sống ngay trong giây phút hiện tại. Đó là những giây phút thật mầu nhiệm tuyệt vời mà ta có mặt tiếp xúc với sự sống. Sự có mặt của ta ngay trong khi tiếng nhạc hay tiếng niệm Phật vang lên. Ta cố gắng thực tập cho ta có được những giây phút sống tuyệt vời đó. Đó là ta khéo biết sống và khéo biết làm chủ sự có mặt của mình.

68. Nền đạo đức của đạo Phật có ảnh hưởng gì trong các ngành sinh hoạt chuyên môn của xã hội không?

Hỏi: Kính Bạch Thầy, nhiều bạn trẻ làm việc văn phòng trong các lĩnh vực chuyên môn về kinh doanh, khoa học, pháp luật cũng muốn tìm hiểu về đạo Phật để nâng cao đời sống tâm linh. Nhưng có bạn thắc mắc là đạo Phật có chuẩn mực đạo đức cao, có ngũ giới, có từ bi hỷ xả; như vậy, liệu các chuẩn mực đạo đức và việc trì giới có là điều ‘bất lợi’ cho công danh sự nghiệp của các bạn ấy, và ảnh hưởng đến kinh tế gia đình của các bạn ấy không ạ? Con nên giải thích với các bạn ấy ra sao?


Đáp:

 

Bi là mở rộng lòng thương bao dung rộng lớn. Trí là tuệ giác là tỉnh thức có khả năng nhận diện soi sáng chuyển hóa vô minh. Thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi là: "Đoạn hoặc chứng chơn". Nếu y cứ vào "Ba Đức" thì, đoạn hoặc thuộc về Đoạn đức. Trí tuệ soi sáng thuộc về Trí đức. Lòng thương rộng lượng bao dung tha thứ thuộc về Ân đức. Dũng là sức mạnh của tinh thần thể hiện được tinh thần Vô úy. Sức mạnh đó là không khuất phục đầu hàng trước bất cứ thế lực vô minh nào. Đó là dũng khí của một con người hùng tráng hiên ngang hy hiến đời mình để phụng sự cho đạo pháp và phục vụ chúng sinh. Đó là tinh thần vô ngã phá chấp của đạo Phật.


Toàn bộ hệ thống giáo điển của Phật giáo, đều dựa vào hai nguyên tắc cơ bản: Khế lý và khế cơ. Khế lý là phù hợp với chân lý muôn đời bất di bất dịch. Khế cơ là xứng hợp với mọi trình độ căn cơ và thời đại. Có thể nói, từ ngàn xưa, nguồn giáo lý của đạo Phật chưa bao giờ đi ngược lại với trào lưu tư tưởng của nhơn loại. Chẳng những thế, mà nguồn giáo lý của đạo Phật còn soi sáng hướng dẫn giúp cho các ngành nghiên cứu về khoa học, khám phá phát minh ra những điều mới lạ kỳ diệu. Những khám phá phát minh về những kỹ thuật điện tử của khoa học, nhằm mang lại cho đời sống con người có thêm nhiều thứ tiện nghi vật chất thoải mái. Nhưng bước sang lĩnh vực tinh thần giải quyết những khúc mắc nội kết ẩn tàng của đời sống tâm linh thì, khoa học đành phải chịu bó tay không tài nào có thể đáp ứng được. Do đó, khoa học phải nhờ đến Phật học. Điều nầy ta thấy rất rõ trong thế giới tương quan hiện nay. Cả hai đều hỗ tương soi sáng cho nhau, nhưng khoa học vẫn còn mò mẫm dò dẫm và phải còn nhờ đến Phật học rất nhiều để trợ lực khai sáng.


Tuy nhiên, điều chúng ta cũng nên lưu ý là, giáo lý của đạo Phật bao giờ cũng nhằm để soi sáng quán chiếu vào nội tại. Đường lối hướng dẫn tu tập của đạo Phật vẫn luôn chú trọng đến phần nội quan hơn là ngoại quan. Câu nói: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc" của Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy cho vua Trần Nhân Tông là câu nói bất hủ có giá trị muôn đời. Nói thế, để Phật tử thấy rằng, đâu là gốc ngọn tu hành của đạo Phật.


Đạo Phật là đạo ban vui cứu khổ. Đó là hạnh nguyện từ bi vị tha nhân ái của đạo Phật. Lòng thương thuộc về trái tim. Trí giác thuộc về khối óc hay lý trí.  Có khối óc mà không có trái tim thì không thể làm lợi lạc cho ai. Nhờ có trái tim nên con người mới biết yêu thương đồng loại rộng ra là hết thảy muôn loài. Trái tim thuộc về tình cảm. Nhưng bên cạnh trái tim, còn cần phải có sự điều động của lý trí. Lý trí bao giờ cũng đóng vai trò chỉ đạo cho tình cảm thực hiện đúng theo hướng chân lý. Thế nên, trong đạo Phật "Bi" và "Trí" phải đi đôi với nhau. Thiếu một thì không được.


Trở lại câu hỏi thắc mắc của Phật tử: "theo các bạn trẻ cho rằng, đạo Phật có chuẩn mực đạo đức cao như Ngũ giới, Từ, Bi ,Hỷ ,Xả,  v.v...  Phật tử nêu ra thắc mắc, như vậy, liệu các chuẩn mực đạo đức và việc trì giới đó có là điều ‘bất lợi’ cho công danh sự nghiệp của các bạn ấy, và ảnh hưởng đến kinh tế gia đình của các bạn ấy không"?


Xin thưa, là không có gì trở ngại bất lợi cho công danh sự nghiệp của các bạn và cũng không có ảnh hưởng gì đến kinh tế gia đình của các bạn cả. Chẳng những không có bất lợi trong việc tu tập và ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, mà trái lại nó còn làm tăng thêm sự lợi ích thiết thực cho những điều đó. Như trên đã nói, giáo lý của đạo Phật giúp cho con người có thêm hìểu biết và niềm tin. Tự tin vào khả năng sở học của mình để có thể cống hiến cho đời những gì lợi ích tương quan trong cuộc sống. Dù các bạn có làm bất cứ chuyên ngành nào trong xã hội, việc xây dựng đạo đức cá nhân đó là điều hệ trọng trước tiên. Đạo đức căn bản của con người không ngoài năm nguyên lý đạo đức mà đức Phật đã dạy. Năm nguyên lý đạo đức căn bản đó giúp cho các bạn thăng tiến vững mạnh trên bước đường công danh sự nghiệp. Như bạn giữ giới không gian tham trộm cướp những vật quý giá của ai, thế thì có phải là bạn sẽ được mọi người tín nhiệm tin tưởng bạn không? Đó là bạn đang xây dựng đạo đức nâng cao phẩm giá uy tín cho bạn. Bạn làm việc ở đâu người ta cũng đều đặt hết niềm tin tưởng vào bạn ở đó. Không một ai tỏ ra khinh khi nghi ngờ hay coi thường bạn cả. Như thế thì sự nghiệp của bạn ngày càng bảo đảm vững mạnh hơn. Ai dám nói điều đó là bất lợi cho bạn? Đến như lời nói của bạn cũng thế. Khi bạn thật hành giữ giới không nói dối, không lường gạt, không thêm thắt đặt điều, thêu dệt, đâm thọc, ly gián với bất cứ ai, nhất là đối với các bạn đồng nghiệp chung sở, tất nhiên, ai ai cũng quý trọng bạn. Vì lời bạn nói ra là ái ngữ, là chánh ngữ, là sự thật, như đinh đóng cột, không ai là không tin bạn. Thế thì bạn thử xét có lợi hay bất lợi? Chỉ đơn cử nêu ra hai giới cấm mà bạn thấy là đã đem lại sự lợi ích cho cá nhân và sự nghiệp của bạn nhiều rồi. Còn những giới khác bạn suy gẫm thì biết. Tôi xin thưa với bạn, giới luật của Phật chế ra không phải là điều kiện ràng buộc mà nó có công năng mang lại cho bạn có nhiều sự tự do và giải thoát. Thế thì, điều đó có phải là chuẩn mực đạo đức cao hay không? Hay đó mới thực sự là nền tảng căn bản đạo đức của một con người.


Nếu bạn là người đang sinh sống trong nghề kinh doanh thương mãi, thì tôi thiết nghĩ, việc tu tập của bạn rất là cần thiết. Bạn chỉ cần chịu khó thực tập cho bạn có được chánh niệm, thì nó sẽ mang lại cho bạn có nhiều lợi lạc. Phương pháp thực tập tuy có nhiều cách, nhưng cách hay nhất để bạn có được chánh niệm trong công việc làm ăn hằng ngày thì, không gì bằng là bạn thực tập theo dõi hơi thở. Bởi hơi thở là mạng sống của bạn và nó không bao giờ vắng mặt với bạn. Bạn chỉ cần để ra vài giây phút an trú vào hơi thở theo đúng phương pháp chỉ dẫn: "thở vào tôi biết tôi đang thở vào, thở ra tôi biết tôi đang thở ra". Đây là bài tập đầu tiên trong mười sáu bài tập "Quán niệm hơi thở". Khi bạn gặp việc rắc rối khó khăn căng thẳng khó giải quyết, thì bạn chỉ cần ngồi yên vài giây phút trở về với hơi thở chánh niệm thì, bạn sẽ cảm thấy tâm trí của bạn an ổn tươi mát trở lại. Những bức xúc căng thẳng bất an sẽ được điều hòa dịu lại. Nhờ sự bình tĩnh sáng suốt mà bạn có thể tìm ra phương cách giải quyết vấn đề một cách dễ dàng hơn. Còn hơn là bạn cứ suy nghĩ lung tung chỉ làm rối thêm lên, bởi do sự bất an trong tâm thức của bạn. Đây là một sự thực tập chớ không phải là lý thuyết. Người ta thường nói, thương trường cũng chính là chiến trường. Vì thế, việc ứng dụng tu tập theo phương pháp thiền quán nó giúp ích cho bạn rất nhiều trong nghề nghiệp kinh doanh của bạn. Và điều đó cũng đâu có gì làm ảnh hưởng đến nền kinh tế gia đình của bạn đâu! Tôi mong bạn nên tư duy suy xét kỹ lại về vấn đề nầy.


Vì trong phạm vi trả lời câu hỏi, nên tôi không thể luận giải cùng bạn nhiều hơn. Chỉ có thể chia sẻ trao đổi góp chút thành ý với các bạn mà thôi. Nếu các bạn muốn hiểu rõ thêm về vấn đề nầy, thì tôi thành thật khuyên các bạn nên tìm các loại sách nói về Thiền quán, nhất là Kinh Quán Niệm Hơi Thở để đọc rất có lợi ích cho bạn.


Nói tóm lại, chuẩn mực đạo đức và sự trì giới không có gì gây ra làm trở ngại hay gây ảnh hưởng tác động đến việc làm ăn của bạn. Chỉ sợ bạn thật hành không đúng theo tiêu chuẩn đạo đức đó thôi. Từ, bi, hỷ xả, đó là bốn lĩnh vực của cái tâm mở rộng lòng thương không biên giới. Chúng ta thực tập mở rộng được bao nhiêu thì sẽ được lợi lạc hạnh phúc bấy nhiêu. Chớ đâu có bắt buộc bạn phải thật hành hoàn toàn đúng theo chuẩn mực đó. Tất cả đều là thực tập và phải thực tập từng bước cho thật vững chắc. Tu là sự thực tập áp dụng vào đời sống hằng ngày qua những giáo, giới mà Phật Tổ đã dạy để cho đời ta có được thêm nhiều lợi lạc an vui và hạnh phúc.


Kính chúc các bạn vui khỏe và thành công trong việc tu học và sự nghiệp.


69. Một người chỉ biết làm lành không cần niệm Phật sau khi chết có được vãng sanh về Cực lạc không?


Hỏi
: Kính Bạch Thầy, có người cho rằng không cần học và tu theo đạo Phật như là một tôn giáo, chỉ cần sống hiền lành không hại ai cả, như thế là ‘đủ’ rồi. Sau này khi mạng chung thì Phật A Di Đà vốn từ bi, không lẽ không đón mình về Tây phương Cực lạc hoặc hương linh lên Chùa là được rồi. Kính Bạch Thầy, thái độ đó có đúng với nhân quả không ạ? Có hạn chế ở điểm gì không ạ?


Đáp:
 Xin thưa, quan niệm đó không hợp với lý nhân quả. Nếu bảo rằng, người đó chỉ biết sống hiền lành không hại ai cả, như thế là đủ rồi. Sau khi mạng chung sẽ được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn người đó về Cực lạc. Đó là điều nghịch lý nhân quả. Bởi người đó chỉ biết sống hiền lành thôi, chớ họ đâu có phát nguyện niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Thế thì, bảo rằng, sau khi mạng chung họ sẽ được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về Cực lạc. Quả đó là điều nghịch lý trái với luật nhân quả. Theo lý nhân quả, người nào muốn được vãng sanh về nước của Ngài thì, người đó phải chuyên niệm danh hiệu của Ngài. Nghĩa là  chúng ta phải thật hành đúng theo bản nguyện của Ngài. Chuyên niệm danh hiệu của Ngài là nhân, được Ngài tiếp dẫn về Cực lạc là quả. Ngược lại, nếu chỉ biết sống hiền lành không thôi, thì làm sao mà sanh về nước của Ngài được? Nếu thế, thì ai sống hiền lành cũng được sanh về Cực lạc hết sao? Phật tử nói, người đó chỉ biết sống hiền lành không hại ai, chớ không phải là họ làm lành. Sống hiền lành không hại ai, đó chỉ là tiêu cực chỉ biết lợi cho mình thôi. Sống hiền lành không chưa đủ mà mình còn phải làm những điều lành lợi ích cho chúng sinh nữa. Đó mới là chỉ ác hành thiện đúng theo lời Phật dạy.


Hơn nữa, trong Kinh A Di Đà đức Phật có dạy, không thể có chút ít nhân duyên căn lành phước đức mà được sanh về Cực lạc. (Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc). Như thế, Phật tử thấy đâu phải chỉ có chút ít căn lành phước đức mà được sanh về Cực lạc đâu.


Muốn được sanh về Cực lạc, ngoài việc tu nhân hành thiện bố thí ra, chúng ta còn phải có đầy đủ ba món Tư lương: "Tín, Nguyện, Hạnh". Nghĩa là phải tin sâu, nguyện thiết và hành chuyên. Tin sâu và nguyện thiết đó là điều kiện ắt có và đủ để được vãng sanh về cõi Cực lạc. Còn phần thật hành tùy theo sự tu tập niệm Phật của mỗi hành giả có chuyên cần hay không, mà kết quả vãng sanh có những phẩm cao thấp khác nhau. Bởi ở cõi Cực lạc có chín phẩm hoa sen. Nếu người nào hằng nhiếp tâm chuyên cần niệm Phật miên mật, niệm niệm tương tục không gián đoạn, thì khi lâm chung người đó sẽ được vãng sanh ở phẩm cao. Ngược lại, thì sanh ở các phẩm khác có cao thấp khác nhau.


Tất cả đều xứng theo nhân và quả cả. Đã là nhân quả thì không bao giờ sai lệch, khác nào như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Sống hiền lành không hại ai, đó là nhân lành, kết quả sanh về cõi lành. Bởi môi trường tái sanh có nhiều cõi. Không có niệm Phật A Di Đà mà muốn sanh về cảnh giới Cực lạc của Ngài thì điều đó không hợp lý. Bởi nhân không gây thì làm sao có quả? Nhân và quả phải tương đồng với nhau mới được.


70. Người mất lâu cầu siêu có được siêu thoát không?


Hỏi
: Kính Bạch Thầy, chúng con có người chú mất trong chiến tranh như là một quân nhân. Do điều kiện khó khăn, không đủ thông tin để tìm thi thể. Với những người thân đã mất lâu năm như vậy, họ đã thoát thân trung ấm không còn là vong linh, chúng ta đâu có biết họ đã về đâu trong sáu nẻo luân hồi, vậy ý nghĩa của cầu siêu là thế nào? Vậy gia đình chúng con có nên cầu siêu cho chú không? Có cần quy y cho chú hay chỉ cầu siêu là được?


Đáp:
Qua ba vấn đề mà Phật tử nêu ra, tôi xin lần lượt góp ý như sau:


Thứ nhứt, Phật tử hỏi ý nghĩa cầu siêu là thế nào? Vấn đề nầy, tôi đã giải thích trong quyển sách 100 Câu Hỏi phật Pháp Tập 1 ở trang 105 và 122. Ở trang 105, có câu hỏi: "Người chết sau 49 ngày cầu siêu có được không?" Và ở trang 122, câu hỏi là: "Tụng kinh cầu siêu có thật siêu không?" Xin Phật tử đọc lại hai câu hỏi đó thì sẽ rõ.


Thứ hai, Người chết đã lâu gia đình có nên cầu siêu cho chú không? Câu hỏi nầy không khác gì câu hỏi: Người chết sau 49 ngày cầu siêu có được không? Xin Phật tử đọc lại câu hỏi nầy như đã nêu rõ số trang ở trên.


Thứ ba, Phật tử hỏi, có cần quy y cho chú hay chỉ cầu siêu là được? Theo tôi, thì Phật tử chỉ nên cầu siêu là được rồi. Bởi người chết đã lâu, vả lại, khi tụng kinh cầu siêu trong đó có phần quy y cho hương linh. Điều quan trọng là những người thân trong gia đình nên vì người mất mà hết lòng thành tâm tụng kinh cầu siêu bạt độ cho họ. Dù người mất đã lâu, nhưng việc tụng kinh cầu siêu hay làm những điều phúc thiện hồi hướng công đức cho họ, đó là điều thiết yếu nên làm. Dù cho họ có thác sanh về cảnh giới nào, thì năng lượng cầu nguyện của người thân cũng giúp cho họ có thêm lợi lạc và chóng được siêu thoát.


Nếu như họ sanh về cảnh giới lành thì họ sẽ được tăng trưởng thêm điều lành. Ngược lại, giả như họ sanh về cảnh giới bất thiện, thì nhờ sự hết lòng thành tâm cầu nguyện hay hồi hướng công đức của người thân, mà họ hồi tâm chuyển ý và sẽ bớt khổ đi nhiều. Điều nầy không phải là mê tín hay hoang tưởng mà là sự thật rất phù hợp theo tinh thần khoa học. "Thần giao cách cảm" là một hiện tượng có thật không phải mơ hồ. Nếu có cảm tất nhiên là phải có ứng. Cảm ứng không sai. Điều quan trọng đáng nói ở đây là, khi cầu nguyện hồi hướng chúng ta phải hết sức thành tâm tha thiết chớ không nên làm cho có lệ. Nếu người mất không nhận được sự cầu nguyện, thì tại sao trong chùa sau mỗi thời khóa tụng niệm chư Tăng, Ni đều có phần phục nguyện cầu siêu và hồi hướng?


Chúng ta nên hiểu thêm rằng, ý nghĩa của hồi hướng là "hồi tự hướng tha, hồi nhân hướng quả và hồi sự hướng lý". Hồi là xoay về mình, hướng là hướng về tha nhân. Đem tâm thanh tịnh của mình mà hướng đến người khác. Với thâm ý là muốn cho họ được an vui giải thoát. Nhân có gây tạo thì quả mới có. Nhân là phần người cầu nguyện; quả là người nhận sự cầu nguyện. Trường hợp như bà Mục Liên Thanh Đề chẳng hạn, nếu không nhờ sức chú nguyện của Phật và chúng Tăng, thì thử hỏi làm sao bà được siêu thoát? Tuy nhiên, người cầu nguyện chỉ là trợ duyên, quan trọng là ở nơi người được cầu nguyện. Cả hai đều phải có sự đồng cảm tương ưng với nhau. Như thế thì sự cầu nguyện mới có lợi ích.  Vì thế, nên người mất dù mới hay lâu, cũng đều rất cần đến sự cầu nguyện hồi hướng công đức cho họ.  Sự đồng cảm khác nào như ta gởi tín hiệu. Nếu ta gởi tín hiệu đúng theo địa chỉ của người nhận, tất nhiên là người đó sẽ nhận được. Điều quan trọng là phải gởi đúng. Điện thoại cũng thế. Nếu ta gọi đúng số (dụ như sự chú tâm của ta) thì người đó cũng sẽ nhận được. Đó là sự cảm ứng giao nhau rất hợp tình hợp lý vậy.


Kính chúc Phật tử an khỏe tinh tấn tu tập và hành thiện để được lợi mình và lợi người.


71. Khi đã thốt ra lời thề nặng có bị mắc phải quả báo không?


Hỏi:
Kính thưa thầy, con có thói quen mỗi khi giận tức ai thì con hay thốt ra lời thề. Có khi con thề báng mạng vì muốn cho họ phải tin tưởng nơi con. Vậy xin hỏi lời thề đó con có bị mắc phải quả báo không? Vì con nghĩ lời thề như gió thoảng mây bay không có bị nhân quả báo ứng. Con nghĩ như thế không biết có đúng không? Kính xin thầy cho con lời khuyên. Con cảm ơn thầy.


Đáp:
Trong đạo Phật nơi gây ra thành nghiệp là ở ba chỗ: Thân, Khẩu và Ý. Nói nghiệp, tất nhiên là nói đến thói quen được lặp đi lặp lại nhiều lần.  Về phần nói về nghiệp quả, chúng tôi đã có giải thích rải rác ở trong 100 Câu Hỏi Phật Pháp Tập 1 và 2. Xin Phật tử coi lại thì sẽ rõ. Thế nên, ở đây, tôi không giải thích nhiều về nghiệp quả. Qua sự trình bày về thói quen thề thốt của Phật tử, tôi xin được góp chút thành ý trong vấn đề nầy.

Thói quen xấu hoặc tốt, tất cả đều do mình huân tập mà thành. Suy nghĩ, lời nói hay hành động đều do từ tâm mình gây ra cả. Phật tử cho rằng, lời thề thốt của mình phát ra như là gió thoảng mây bay, điều đó căn cứ theo nhân quả thì không đúng. Vì theo luật nhân quả, bất cứ lời nói hay hành động nào tốt hoặc xấu, lành hay dữ, đều có nhân và có quả cả. Ngay cả sự suy nghĩ của ta cũng đều có nhân và có quả. Nhân quả là một chân lý phổ biến chi phối tất cả sự vật trong vũ trụ, không một vật nào thoát khỏi. Động cơ phát ra lời thề là từ ý nghĩ, tức ý nghiệp. Và từ đó Phật tử mới phát ra thành tiếng. Khi phát ra thành lời thì thuộc về khẩu nghiệp. Nói cho đúng là phải nói ngữ nghiệp. Thế thì nghiệp là nhân, đã có nhân, thì làm sao tránh khỏi quả báo?

Tuy nhiên, nghiệp thì có nghiệp nặng và nghiệp nhẹ. Nghĩa là thói quen nặng và thói quen nhẹ. Như Phật tử cố ý thề báng mạng cho qua chuyện, dù rằng việc đó mình đã có làm, nhưng vì muốn cho đối phương tin tưởng mình, nên mình cố tình thề thốt để cho người đó tin. Đây là lời thề có chủ ý, tức nhiên là tội nặng. Còn nếu là lời thề chỉ là thói quen ở nơi miệng, không có cố tâm để thề, thì đây là tội nhẹ. Như những người có thói quen văng tục hay chửi thề, họ chỉ phát ra theo thói quen mà không có chủ ý. Điều nầy, trong Tâm lý học Tây phương  gọi là Tự động tính. Duy Biểu Học Phật giáo thì gọi là Duy tác nghiệp. Nghĩa là một hành động hay lời nói mà không có chủ ý. Tức là ý thức không hợp tác vào, họ chỉ phản xạ một cách tự nhiên theo quán tính. Điều nầy là không thành tội. Nếu có, thì cũng rất là nhẹ.


Nói thế để Phật tử thấy rằng, nếu lời thề của Phật tử có cố ý nhằm để cho đối phương tin tưởng không nghi ngờ, theo nhân quả báo ứng, thì Phật tử đã có tội rồi. Ngược lại, nếu Phật tử chỉ thề cho qua chuyện mà điều đó thực ra Phật tử không có làm, thì đây chỉ là mang tội khẩu nghiệp nhẹ. Tuy nhiên, dù nặng hay nhẹ, tôi khuyên Phật tử phải nên thành tâm sám hối. Phật tử nên phát nguyện dứt khoát từ nay về sau không tái phạm thói quen thề thốt nầy nữa. Được như vậy, thì tội sẽ hết. Phật tử nên nhớ, lời thề nào cũng mang đến hậu quả không tốt cho mình. Ý thức như thế, Phật tử nên cương quyết từ bỏ. Phật tử nên thành tâm sám hối, như thế thì sẽ hết tội. Bởi tội gây ra từ tâm thì cũng phải từ tâm mà sám hối.


Kính chúc Phật tử luôn sống trong tỉnh thức để được an lạc hạnh phúc.

72. Chỉ quán là gì? Và thế nào tu chỉ và tu quán?

Hỏi: Kính bạch thầy, lâu nay con thường nghe nói đến hai chữ Chỉ và Quán, nhưng con chưa hiểu ý nghĩa của hai chữ nầy như thế nào? Và cách ứng dụng tu Chỉ Quán ra sao? Kính xin thầy hoan hỷ giải thích cho chúng con hiểu. Kính cảm ơn thầy.


Đáp:
Chỉ có nghĩa là dừng lại. Quán có nghĩa là xem xét. Nói dừng lại, tức là dừng mọi vọng tưởng không cho dấy khởi. Còn xem xét là quán chiếu ở nơi tự tâm. Chỉ là tên khác của Định. Quán là tên khác của Huệ. Tâm của chúng ta giống như con khỉ, con vượn, chuyền nhảy lung tung, không bao giờ nó chịu đứng yên một chỗ. Người tu là muốn cho cái tâm vọng tưởng lăng xăng đó phải an trú lại một chỗ. Ví như người ta không muốn cho con khỉ, con vượn chuyền nhảy lung tung nữa, thì phải dùng lồng nhốt nó lại. Cái lồng là phương tiện để nhốt chúng nó. Cũng thế, muốn cho cái tâm lăng xăng phan duyên theo trần cảnh không còn nữa thì người tu phải dùng giới luật để ngăn chế nó. Đó gọi là phòng phi chỉ ác. Nghĩa là ngăn ngừa những điều sái quấy do tâm vọng động gây ra. Giới, Định, Huệ là con đường đưa hành giả đến đích giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Ngoài con đường nầy ra, thật không còn con đường nào khác. Dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào, muốn được giác ngộ giải thoát đều phải áp dụng ba môn học nầy.


Tuy nhiên, muốn đạt được kết quả đó, thì hành giả phải biết phương pháp ứng dụng tu Chỉ (định ) và tu Quán (huệ).


Trong quyển Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu của Ngài Thiên Thai Trí Giả Đại Sư, có giải thích về phương pháp tu Chỉ Quán như sau:

Tu Chỉ Quán có hai cách: 1. Tu trong phép ngồi. 2. Tu trong khi lịch duyên đối cảnh. Trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, thì tư thế ngồi là thù thắng hơn. Bởi ngồi dễ nhiếp tâm hơn. Vì tâm ta chưa được thuần thục, nên khi đối cảnh xúc duyên nó thường theo cảnh duyên nên dễ bị loạn động. Riêng nói về tu Chỉ có ba ý:


- Hệ duyên thủ cảnh chỉ:
đây là phương pháp cột tâm vào một chỗ như: chót mũi hay giữa rún v.v... để tâm ta không bị tán động. Kinh nói: "Cột tâm lại chẳng để cho buông lung, cũng như cơn giận bị xiềng".


- Chế tâm chỉ:
Tùy tâm khởi lên theo dõi mà chế phục. Vì không muốn cho nó tán loạn. Kinh nói: Năm căn nầy tâm là chủ, thế nên các ông phải khéo chế tâm. Hai loại nầy đều là sự tướng chẳng cần phải phân biệt.


- Thể chơn chỉ:
Muôn pháp tùy tâm biến hiện, tất cả đều do nhân duyên sanh, nên nó không có tự tánh, đã không tự tánh thì tâm không thủ trước. Nếu tâm không chấp thủ thì vọng niệm không phát sanh, nên gọi là Chỉ.

Đó là ba phương pháp tu chỉ để hướng dẫn tâm vọng an trú vào định. Tuy nhiên, khi tu Chỉ lâu, thì hành giả dễ bị hôn trầm. Do đó, nên hành giả phải cần tu Quán. Tu Quán có hai loại:


- Đối trị Quán:
Hành giả nên dùng một đề mục nào đó trong ba mươi phẩm trợ đạo để quán sát. Như quán bất tịnh hay Giới phân biệt quán v.v... Mục đích là để đối trị. Quán bất tịnh là để đối trị tham dục. Quán giới phân biệt là để đối trị cái tâm ngu si chấp ngã.


- Chánh quán:
Quán các pháp không có tướng chân thật, tất cả đều do nhân duyên sanh. Tánh của nhân duyên không thật có, tức là Thật tướng. Cảnh sở quán vốn không, thì tâm năng quán tự nhiên chẳng khởi.


Tóm lại, hai pháp tu "Chỉ" và "Quán", theo Tổ Thiên Thai khuyên chúng ta khi áp dụng hành trì thì phải khéo linh động thay đổi trong khi tu. Như Chỉ lâu thì dễ bị hôn trầm (ngủ gật), bấy giờ hành giả phải tu Quán. Quán các pháp là không thật, bởi do nhân duyên mà có ra. Cái có đó chỉ là giả có, tự tánh của các pháp là không. Do quán như thế, nên trị được bệnh hôn trầm. Quán lâu thì dễ bị loạn, nên phải tu Chỉ. Chỉ là dừng mọi thứ vọng tưởng để an trú vào một cảnh cho tâm định lại. Như an trú vào hơi thở v.v... Đó là phương pháp áp dụng tu Chỉ và Quán vậy. Vì phạm vi trả lời câu hỏi có giới hạn, nên chúng tôi không thể giải rộng được. Phật tử muốn biết rõ hơn về pháp tu nầy, thì nên đọc quyển Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu của Thiên Thai Trí Giả Đại Sư do cố Hòa thượng Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo ấn hành.


73. Tu theo hạnh Tùy hỷ công đức như thế nào mới được lợi lạc?


Hỏi:
 Kính bạch thầy, mỗi khi con tụng Kinh Pháp Hoa đến Phẩm Tùy Hỷ Công Đức con rất thích, nhưng con không biết phải áp dụng tu như thế nào mới có được lợi lạc theo như trong Kinh dạy. Kính mong thầy từ bi giải thích cho con được hiểu. Kính trọng ơn thầy.


Đáp:
Tùy hỷ là vui theo với những việc làm phúc thiện của người khác. Nghĩa là khi ta mở rộng cõi lòng hoan hỷ thì khi đó ta không có tánh đố kỵ ganh ghét với bất cứ ai. Bản chất của con người không thích ai hơn mình. Lòng đố kỵ ganh tỵ của con người khi thấy ai hơn mình thì đều ganh ghét không ưa. Họ chỉ muốn mọi người phải nghe và phục tùng theo họ. Chính vì thế mà bản ngã của họ ngày càng cao thêm. Bản ngã càng cao thì những tập khí xấu ác thô trọng của họ càng hiện ra nhiều. Người có tâm tùy hỷ là người hay có những đức tánh hòa ái, nhẫn nại, khiêm cung. Họ luôn tôn trọng ý kiến của người khác. Họ không thích phê bình chỉ trích nói xấu ai. Vì họ thừa biết, những người thích giao du nói chuyện thị phi đàm tiếu chuyện thiên hạ sự, đó là những hạng người không tốt. Họ là hạng người chuyên đi vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, nhưng bản thân họ thì lại đầy sâu, đầy vết mà họ không chịu thấy. Nhà họ rác rến đầy ấp mà họ không bao giờ biết lo dọn quét. Họ chỉ thích đi quét dọn rác rến nhà người khác. Đối với hạng người nầy gần họ chắc chắn là ta sẽ dễ bị nhiễm độc, tức nhiễm phải thói hư tật xấu của họ. Ta nên tìm cách lánh xa họ thì tốt hơn. Vì ta không muốn gây nên phiền phức phiền não. Thế nên, Phẩm Tùy Hỷ Công Đức thứ 18 trong Kinh Pháp Hoa Phật đã cho chúng ta ba bài học mà ta cần phải lưu ý. Dĩ nhiên, còn có nhiều bài học rất sâu sắc trong Phẩm nầy, nhưng ở đây trong phạm vi trả lời, chúng tôi chỉ xin nêu ra vắn tắt qua ba bài học căn bản, theo sự nhận thức thiển cận của chúng tôi mà thôi.


- Thứ nhứt, ta không nên diễn dịch sai lệch yếu chỉ lời Phật dạy. Thông thường, người ta vì chủ quan nên hay diễn dịch sai lầm câu chuyện. Chuyện một đồn mười, vẽ vời thêu dệt tô đậm nét câu chuyện. Chuyện ít xích cho nhiều, đó là tâm bệnh chung của con người. Từ câu chuyện được nói qua người thứ nhứt và khi chuyền đến người thứ mười hoặc nhiều hơn nữa, thì câu chuyện đã không còn giữ nguyên vẹn ở lúc ban đầu. Người ta thường nói, "Tam sao thất bổn" là vậy. Bởi thế nên mới có câu: "Y Kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết". Từ đó, ta rút ra bài học: "Không nên nghe người khác học lại câu chuyện của người khác nói mình". Bởi họ không khi nào diễn kể lại đúng theo câu chuyện của người đó nói. Đây là một sự hiểu lầm nhau gây nên tình bạn sứt mẻ rất tai hại. Đó là chưa nói họ mượn tay người khác để hại mình. Chiêu thức nầy gọi là "ném đá giấu tay". Vì thế ta nên hết sức cẩn thận khi nghe câu chuyện mà người khác học lại với ta. Lối đâm thọc nầy thật là tội lỗi!


Thứ hai, ta nên chú ý cụm từ trong Kinh nói: "Tùy theo khả năng của mình". Khả năng nhận thức của mình như thế nào về lời Phật dạy, thì ta nên lượng sức mình mà diễn nói. Điều gì ta chưa hiểu rõ thì phải chịu khó học hỏi, ta không nên nói càng bướng theo sở kiến ý nghĩ riêng của mình. Bởi thế khi nghe pháp hay học hỏi giáo lý, ta phải chịu khó lắng nghe cho thật kỹ. Ta không nên có thái độ thờ ơ xao lãng khinh suất. Thế là ta đắc tội khinh pháp. Ta phải cố gắng nỗ lực gia công tìm tòi học hỏi nguồn giáo lý thâm sâu Phật dạy. Điều gì ta chưa hiểu, chưa thông, thì ta nên tùy hỷ học hỏi với những người có trình độ hiều biết Phật pháp hơn ta. Đó là ta khéo biết dẹp bỏ lòng ganh tỵ hay mặc cảm tự ty ở nơi chính mình. Ta phải tự nhủ với lòng mình rằng, bằng mọi cách ta phải cố gắng vươn lên để bền chí kiên tâm lập trường cầu tiến trong sự tu học.


Thứ ba, niềm hoan hỷ lớn mạnh trong ta là khi ta được tiếp nhận từ người khác diễn thuyết lại giáo lý sâu sắc trong Kinh Pháp Hoa. Nói rộng ra là ta phải hoan hỷ mở rộng cõi lòng đón nhận những nguồn giáo lý giác ngộ và giải thoát. Ta nên tùy hỷ với những việc làm tốt đẹp của người khác. Mặc đù điều đó ta có khả năng làm được hoặc không làm được. Đó là ta khéo biết tu hạnh Tùy hỷ công đức rồi. Cái công đức mà trong Kinh nói, nó nằm ở chỗ là, ta phải cương quyết dẹp bỏ lòng ganh tỵ đố kỵ với mọi người, mà ta phải thật tâm rộng mở cõi lòng để vui theo với những việc làm thiện sự của người khác. Như người đó có khả năng vượt trội hơn ta về mặt hành thiện vị tha chẳng hạn. Ví như, người đó phát tâm bố thí, cúng dường, công quả, đi chùa, tụng kinh, niệm Phật v.v...  mà ta chưa có khả năng làm được như họ, thì ta nên tùy hỷ với những việc làm của họ, thì Phật nói công đức của hai người hành thiện ngang nhau. Hạnh tùy hỷ mới nghe thì thấy dễ, nhưng khi thật hành thì mới thấy khó. Khó ở chỗ là lòng ta còn chất chứa quá nhiều tập khí ganh tỵ đố kỵ người khác. Và lòng tham lam tật đố của ta còn đầy ấp. Vì thế nên mới nói là khó tu hạnh nầy vậy. Tôi thành thật khuyên Phật tử nên cố gắng tu hạnh tùy hỷ công đức nầy.


Kính chúc Phật tử sẽ đạt được nhiều lợi lạc trong sự tu hành.


74. Niệm Phật như thế nào mới chóng được vãng sanh?


Hỏi:
Kính thưa thầy, con là một Phật tử tu theo pháp môn Tịnh độ đã lâu, con cảm nhận cuộc đời nầy quá đau khổ, bản thân con cũng đã trải qua quá nhiều cay đắng khổ sở, con không còn tha thiết ham muốn gì với cuộc đời nầy nữa, nay con chỉ muốn niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc thôi. Nhưng con không biết phải niệm Phật như thế nào mới chóng được vãng sanh chỉ trong một đời nầy? Kính mong thầy từ bi chỉ dạy cho con để con thực hành đúng theo chóng có kết quả lợi lạc. Thành kính cảm ơn thầy.


Đáp: 
Cổ nhân thường dạy: "Nhơn vô hoạn họa bất hồi đầu". Nghĩa là, nếu con người không gặp khổ nạn, thì ít có ai chịu hồi đầu thức tỉnh tu hành, tìm đường giải thoát. Nhờ có khổ đau nên con người mới thức tỉnh tu hành. Trường hợp của Phật tử cũng thế. Tuy nhiên, không phải ai gặp hoạn nạn khổ đau đều hồi đầu tu hành hết. Cũng có người lâm vào những hoàn cảnh khổ đau cùng cực, thế nhưng, họ cũng không có hồi tâm thức tỉnh. Có thể căn lành của họ rất mỏng và nghiệp lực của họ quá sâu dầy. Ngược lại, Phật tử thì có khác. Tuy chịu nhiều đau khổ nhưng nhờ có gieo trồng nhiều căn lành với pháp môn Tịnh độ nên nay mới quyết tâm niệm Phật cầu vãng sanh. Với phát tâm tín nguyện sâu dầy, thì tôi tin chắc rằng, trước sau gì Phật tử cũng đạt được sở nguyện mà thôi.


Về pháp môn niệm Phật, theo lời Phật Tổ dạy, hành giả muốn niệm Phật mau được nhứt tâm bất loạn, thì phải nên buông xả hết trong ngoài. Buông xả trong ngoài như thế nào? Theo lời dạy của Tổ Liên Trì, Ngài khuyên hành giả Tinh độ, khi niệm Phật là phải buông xả cả thân tâm, trong ngoài không chấp trước vật gì. Nói về phương pháp xả, thì Ngài dạy: "Phương pháp xả trong kinh nói rất nhiều. Đặc biệt trong Kinh Lăng Nghiêm, chương Bồ tát Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông có dạy: "Thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục". Dùng vào đức hồng danh một câu Thánh hiệu Nam mô A Di Đà Phật buộc chặt nơi sáu căn, đem danh hiệu Phật làm "bổn mạng nguyên thần" của chúng ta. Từ thủy đến chung, từ sáng đến tối, quyết không lìa câu Phật hiệu. Trong quá trình trì danh hiệu Phật, xả bỏ các duyên của sáu căn, xả bỏ sự tiêm nhiễm của sáu trần. Nương tựa vào nguyện lực đại từ, đại bi của Phật A Di Đà để thành tựu hạnh nguyện vãng sanh Cực lạc, giải thoát luân hồi và chứng quả thành Phật".


Qua lời dạy của Tổ, Phật tử thấy, hành giả niệm Phật muốn được vãng sanh trong một đời, thì không có gì khác hơn là phải thật hành một chữ "Xả". Bởi niệm Phật mà còn dính mắc vào sáu trần, thì làm sao an trú trong câu Phật hiệu sáu chữ Di Đà cho được? Muốn được tịnh niệm nối luôn không xen hở thì, hành giả phải chuyên tâm niệm Phật. Đồng thời phải phát nguyện tha thiết cầu sanh về Cực lạc. Phật tử đã có niềm tin vững chắc quyết một đời niệm Phật cầu vãng sanh, thì Phật tử chỉ cần hành chuyên và nguyện thiết nữa, thì bảo đảm trong một đời quyết định được vãng sanh. Điều nầy không còn gì phải nghi ngờ nữa cả.


Kính mong Phật tử nên y theo lời dạy của Tổ Liên Trì mà thật hành cho đúng pháp, thì lo gì khi lâm chung Phật tử không được vãng sanh.


Kính chúc Phật tử tinh tấn niệm Phật, chóng đạt thành sở nguyện.


75. Người phụ nữ khi sanh sản có nên niệm Phật thành tiếng không?


Hỏi:
Kính bạch thầy, con có một thắc mắc là khi người phụ nữ sanh sản có nên niệm Phật thành tiếng không? Có người nói vì là chỗ dơ dáy bất tiện nên không thể niệm Phật ra tiếng, như thế sẽ mang tội thất kính. Không biết lời nói nầy có đúng không? Kính xin thầy giải thích cho con rõ.


Đáp:
Xin thưa ngay, người nói như thế hoàn toàn không đúng. Lời nói đó có thể là do họ tự suy đoán mà nói ra thôi. Nếu có gì chưa hiểu thì nên tìm hiểu cho rõ, chớ không nên suy đoán nói càng vô căn cứ mà có lỗi. Điều đó, thiết nghĩ, Phật tử không nên nghe theo. Khi nghe ai nói điều gì mình cần phải kiểm nghiệm lại cho thật kỹ. Không nên nghe đâu tin đó. Tin như thế thì thật là nguy hiểm, tai hại vô cùng.


Việc sinh sản là sinh lý tự nhiên của người phụ nữ. Đâu phải người đó muốn tạo ra cảnh dơ dáy mà không niệm Phật được. Hơn nữa, lúc sanh sản là lúc thập tử nhứt sanh nên cần phải niệm Phật. Không những sản phụ niệm Phật thành tiếng không thôi, mà những người thân có mặt lúc đó cũng đồng niệm Phật thành tiếng trợ lực cùng sản phụ. Trường hợp đó niệm Phật thành tiếng không có tội lỗi gì cả. Bởi chư Phật, Bồ tát đâu có phân biệt dơ sạch như phàm phu chúng ta. Chỉ sợ lúc đó vì quá đau đớn nên sản phụ không nhớ đến niệm Phật đó thôi. Do đó, người nhà hãy vì sản phụ mà khuyến nhắc nên niệm Phật to tiếng. Điều quan trọng là khi niệm Phật, mọi người phải hết sức thành tâm nên vì sản phụ mà chí thành tha thiết niệm Phật. Nguyện cầu chư Phật, Bồ tát gia hộ cho việc sanh sản được thuận lợi nhanh chóng mẹ tròn con vuông.  


Đọc trong kinh sách cũng như nghe các bậc Cổ Đức thường khuyến nhắc, trong lúc sanh sản, người sản phụ phải hết lòng chí thành niệm Phật. Có nhiều sản phụ xấu tánh trong lúc đau bụng khó chịu, hay khóc lóc la lối chửi bới om sòm cào cấu lung tung, làm cho người nhà rối loạn cả lên không giúp ích được gì cả. Điều nầy, thiết nghĩ người nhà cũng nên thông cảm mà tìm cách an ủi khuyên giải sản phụ. Nếu chỉ biết khóc la chửi bới om sòm, chẳng những không giải quyết được gì mà còn gây thêm nghiệp khẩu nữa. Chi bằng tất cả nên thành tâm niệm Phật to tiếng, như vậy có phải là có lợi ích lắm không? Nếu người sản phụ vì đau quá không nhớ niệm Phật thì người nhà nên nhắc nhở mà cùng nhau to tiếng niệm Phật cho đến khi đứa bé lọt lòng chào đời mới thôi. Biết đâu nhờ to tiếng niệm Phật mà sản phụ quên đi cơn đau. Và lúc đó chư Phật, Bồ tát đồng thùy phóng quang gia hộ cho việc sanh sản được thập phần tiện lợi tốt đẹp.


Thật ra, tôi chưa thấy vị nào nói là trong lúc sanh sản, người sản phụ không được niệm Phật thành tiếng cả. Niệm Phật thành tiếng có lỗi là trong khi ta vào cầu xí hoặc lúc nằm ngủ. Khi đó, ta chỉ thầm niệm Phật mà không nên niệm ra tiếng. Nếu ta niệm thành tiếng thì mới mang tội thất kính. Đó là lời khuyên bảo của Tổ Ấn Quang. Còn việc sanh sản là việc tự nhiên của người phụ nữ, thì tại sao không niệm Phật thành tiếng được? Điều nầy không có ai và cũng không có kinh sách nào ngăn cấm cả. Phật tử cứ yên tâm đừng lo ngại việc đó.

Kính chúc Phật tử an vui mạnh khỏe bền tâm tu niệm cho đến ngày thành công viên mãn.


76. Có thân nhân mất phải làm gì trong tang lễ.


Hỏi:
Kính bạch thầy, khi có người thân trong gia đình mất, theo nghi lễ Phật giáo thì chúng con phải chuẩn bị và làm gì trong tang lễ? Cũng như trong vòng thời gian 49 ngày. Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho con rõ. Thành kính cảm ơn thầy.


Đáp:
Khi một người mới mất, thông thường, theo Phật giáo thì gồm có các nghi lễ chính như sau:

- Lễ nhập liệm hay tẩn liệm, tức đưa thi thể của người mất vào quan tài.

- Lễ thành phục hay phát tang.

- Lễ cúng vong (cúng cơm cho hương linh người mất)

- Các thời kinh cầu siêu cho hương linh khi linh cữu còn quàn tại nhà quàn hay ở nhà hoặc ở chùa.

- Lễ di quan, tức tiễn đưa hương linh đến nơi an nghỉ: mai táng hoặc hỏa táng...

- Lễ an linh, tức rước linh về thờ ở chùa hoặc ở nhà sau khi hỏa táng hoặc mai táng.


Đại khái, đó là những lễ chính thức theo nghi thức Phật giáo. Tuy nhiên, còn những nghi thức khác thì tùy theo mỗi nơi, mỗi hoàn cảnh và mỗi chùa, mà chư Tăng, Ni hành lễ có đôi khi khác nhau chút ít. Nhưng đó là những nghi lễ dành cho người mới mất không thể thiếu được. Ngoài ra, còn việc coi ngày giờ tẩn liệm hoặc thiêu hay chôn, là do tang chủ quyết định. Phật tử có thể trực tiếp đến chùa hoặc gián tiếp điện thoại cho Tăng, Ni, thưa trình những gì mà Phật tử cần làm. Mọi việc lễ nghi đều do Tăng hoặc Ni hướng dẫn. Nếu người mất là một liên viên chính thức sinh hoạt trong đạo tràng như đạo tràng Quang Minh ở Melbourne - Úc Châu chẳng hạn, thì mọi lễ nghi trong tang lễ sẽ do đạo tràng đứng ra chủ trì và hướng dẫn mọi việc. Điều nầy, từ trước tới nay Đạo tràng đã thực hiện như thế.


Còn Phật tử hỏi, Phật tử phải chuẩn bị và làm như thế nào trước và trong thời gian tang lễ diễn ra, xin thưa, Phật tử nên chuẩn bị các việc như sau:


- Nếu Phật tử là người ở Úc, thì việc trước tiên là Phật tử phải đặt thuê nhà quàn. Nếu không, thì Phật tử cũng có thể quàn ở chùa, nhưng phải thưa qua với vị trụ trì sở tại xem vị đó có hoan hỷ chấp thuận hay không?


- Chuẩn bị khăn tang cho các thân nhân trong tang quyến.
- Hoa quả nhang đèn v.v...
- Thức ăn uống để cúng tiến hương linh.
- Thiết lập bàn thờ linh tại nhà (nếu gia đình muốn thờ ở nhà).


Đó là những điều cần thiết mà Phật tử cần chuẩn bị sẵn.


Và sau tang lễ, Phật tử chỉ lo cầu siêu cho hương linh mỗi tuần thất cho đến chung thất 49 ngày. Đến tuần chung thất, nếu Phật tử cũng như thân nhân trong gia đình muốn cúng dường trai tăng để cầu siêu bạt độ cho hương linh, thì gia chủ phải trình bạch với Tăng, Ni ở trong chùa nơi mà Phật tử muốn thiết lễ cúng dường trai tăng.


Kính chúc Phật tử có đầy đủ niềm tin và trí tuệ trong vấn đề tu học cho đến ngày công thành quả mãn.


77. Chánh hạnh và trợ hạnh như thế nào?


Hỏi:
Kính bạch thầy, con thường nghe nói đến chánh hạnh và trợ hạnh, nhưng con chưa hiểu tu chánh hạnh và trợ hạnh như thế nào?  Như trường hợp của con lâu nay con tu theo pháp môn Tịnh độ, con thường tụng kinh, trì chú niệm Phật. Vậy cái nào là chánh và cái nào là trợ? Kính mong thầy giải đáp cho con rõ.


Đáp:
Chánh là chỉ có một không hai là cái quan trọng nhất mà hành giả phải chuyên cần thật hành đúng theo. Còn trợ là cái phụ giúp cho cái chánh được tăng trưởng lớn mạnh vững chắc thêm. Như Phật tử nói, Phật tử tu theo pháp môn Tịnh độ thường tụng kinh, trì chú, niệm Phật. Theo chư Tổ Liên Tông dạy, người tu theo pháp môn Tịnh độ thì lấy việc niệm Phật A Di Đà làm chánh hạnh, còn tụng kinh, trì chú hay bố thí cúng dường v.v... đều là những việc làm trợ hạnh. Nhưng cái chánh hạnh bao giờ cũng được chú tâm quan trọng nhiều hơn. Hằng ngày, Phật tử lấy việc niệm Phật cầu sanh Cực lạc làm chính yếu, coi như việc đó là bổn mạng ngươn thần của mình, cần phải có thời khóa nhất định. Ngoài ra, khi tụng kinh hay trì chú Phật tử cũng phải niệm Phật. Ngoài những thời khóa đó ra, những lúc đi, đứng, nằm, ngồi, tới lui động tịnh, tùy thời, tùy chỗ, Phật tử đều nên niệm Phật. Niệm Phật như thế lâu ngày trở thành một thói quen mạnh, đó gọi là sức mạnh của việc niệm Phật. Chính cái thói quen nầy, trong kinh thường gọi là nghiệp lực (sức mạnh của nghiệp)  khi thuần thục nó sẽ làm chủ động. Bấy giờ Phật tử không dụng công niệm Phật mà nó vẫn tự niệm. Đây gọi là "Bất niệm tự niệm".

Theo đệ Nhị Tổ Thiện Đạo và đệ Bát Tổ Liên Trì cũng như cố Hòa thượng Thích Trí Tịnh đều dạy: Người niệm Phật phải đạt tầng công phu thấp nhất, là Bất niệm tự niệm (niệm lực được tương tục) mới bảo đảm vãng sanh. Hành giả muốn đạt được Bất niệm tự niệm thì phải chuyên tu Chánh hạnh. Người đời thường nói: "Nhất nghệ tinh nhất thân vinh". Thế thì, muốn có kết quả tốt đẹp như ý muốn, thì hành giả phải cố gắng chuyên tu Chánh hạnh, không nên tu Tạp hạnh. Thuần thì không tạp mà tạp thì không thuần. Cho nên khi hạ thủ công phu, ta cần phân biệt rõ đâu là chánh hạnh và đâu là trợ, tạp hạnh. Có thế thì công phu tu tập của chúng ta mới có thể đạt được kết quả tốt đẹp vậy.


78. Người đạt Bất niệm tự niệm, có còn vọng niệm không?


Hỏi:
Kính bạch thầy, con đọc trong sách Tịnh độ thấy có câu: Bất niệm tự niệm, nhưng con không hiểu khi mình đạt được Bất niệm tự niệm rồi, thì khi đó có còn vọng niệm không? và cho đến khi nào mới trừ hết vọng niệm? Kính xin thầy giái đáp cho con rõ.


Đáp:
Xin thưa, người đạt Bất niệm tự niệm, chỉ vọng niệm ít khởi thôi, chớ chưa thật sự dứt hết. Nếu sạch hết vọng niệm thì thành Phật rồi. Tuy thỉnh thoảng vọng niệm có khởi, nhưng vừa khởi lên liền tự dứt. Đây là chỗ kỳ đặc vi diệu của pháp môn niệm Phật.


Triệt Ngộ Đại Sư là vị Tổ thứ mười hai trong Liên tông có dạy: "Chỉ có Đức Phật mới vô niệm, còn từ Đẳng giác Bồ tát trở xuống đều hữu niệm". Như vậy, từ ngữ "vô niệm" mà chúng ta thường nghe thường dùng có nghĩa là không tà niệm chớ không phải thật sự là không có niệm.


Ngẫu Ích Đại Sư nói: "Nhập vô tưởng định vẫn còn có tám vạn bốn ngàn (84.000) loạn tưởng khô khan".


Trong khế kinh có nói: Trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi sát na. Mỗi sát na có một trăm mười ý niệm. Như vậy trong khoảng khảy ngón tay có sáu ngàn sáu trăm ý niệm. Những ý niệm mà ta thường nói đó là những ý niệm thô, còn những ý niệm vi tế thì làm sao ta có thể nhận ra được?

Phật tử hỏi cho đến khi nào mới trừ hết vọng niệm? Nếu y cứ vào Tứ quả Thanh Văn của Phật giáo Nguyên Thủy, thì đến quả vị A la hán mới trừ hết vọng niệm (A la hán vị xả). Nghĩa là A la hán xả bỏ hết vọng niệm. Còn y cứ vào quả vị tu chứng của Phật giáo Phát Triển (Đại thừa) thì phải đến quả vị Phật mới hoàn toàn không còn vọng niệm. Vọng niệm sạch hết thì mới gọi là Giác ngộ viên mãn.


79. Lạy Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa?


Hỏi:
 Kính thưa thầy, con là một Phật tử đi chùa đã lâu, nhưng chỉ đi chùa theo lệ thường chớ không có tu học hay nghiên cứu kinh điển. Về cách thức lạy Phật cũng như nguồn gốc ý nghĩa lạy Phật và lạy Phật có bao nhiêu cách? thú thật là con chưa hiểu rõ. Vậy con kính mong thầy hoan hỷ có thể giải thích cho con được hiểu rõ hơn. Con thành kính cảm ơn thầy.


Đáp
: Lạy Phật thuộc về Lễ bái môn một trong Ngũ niệm môn (Lễ bái môn, Tán thán trì tụng môn, Tác nguyện xưng danh môn, Quán sát môn và Hồi hướng môn).  Truy nguyên về nguồn gốc của việc lạy Phật đã có từ thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Xưa kia, đức Phật không phải chỉ ở nhơn gian không mà có khi Ngài lên cung trời thuyết pháp. Thời gian Ngài vắng mặt ở nhơn gian, các hàng đệ tử rất nhớ Ngài. Khi gặp Phật ai nấy đều hết sức mừng rỡ và hết lòng tôn kính, bằng cách quỳ mộp xuống ôm chân Ngài và đặt trán mình lên bàn chân Ngài. Đó là biểu lộ lòng chí thành ngưỡng mộ một bậc Đạo Sư bi trí siêu phàm. Sau khi Phật nhập diệt, cử chỉ tôn kính lạy Phật vẫn được các hàng đệ tử tín đồ xuất gia và tại gia luôn thể hiện cho đến ngày nay và mãi đến ngàn sau. Lạy Phật cũng là một pháp môn thắng diệu để biểu lộ diệt trừ cái tâm cống cao ngã mạn, hiu hiu tự đắc, khinh người dưới mắt mình. Đó là ý nghĩa chính yếu của sự lạy Phật để dẹp trừ ngã mạn.


Phật tử hỏi: về cách thức lạy Phật và lạy Phật có bao nhiêu cách?


Về cách thức lạy Phật tùy theo mỗi truyền thống của các nước Phật giáo mà biểu hiện cách thức lạy Phật có khác nhau. Theo truyền thống của hệ phái Phật giáo phát triển ở Trung Hoa, cũng như ở Việt Nam, thì cách thức lạy Phật giống nhau. Nghĩa là, khi lạy Phật năm vóc gieo xuống đất. Đây gọi là "Ngũ thể đầu địa", tức là hai cánh tay, hai đầu gối quỳ xuống và đầu phải xát đất. Khi lạy xuống hành giả phải ngửa hai bàn tay ra đưa về phía trước với tư thế như đang nâng bàn chân Phật lên và trán phải đặt giữa hai bàn tay. Lạy Phật không những thân phải trang nghiêm tề chỉnh mà tâm cũng phải hết lòng cung kính tưởng như đức Phật đang ở trước mặt mình. Lạy Phật như thế, trong kinh gọi là "Thân tâm cung kính lễ".


Về cách lễ bái, đứng về mặt Sự tướng biểu lộ bằng hình thức của thân tâm mà nói, thì trong kinh nêu ra có 4 cách:


- Quy mạng lễ:
cách lễ nầy hành giả phải đem hết cả thân tâm hướng về Phật mà chí thành đảnh lễ.


- Thân tâm cung kính lễ:
cách lễ nầy như đã nói, thân và tâm phải hợp nhứt với nhau trong khi đảnh lễ.


- Sám hối lễ:
cách lễ nầy hành giả phải hết lòng sám hối những lỗi lầm mà mình đã gây tạo để cầu Phật chứng minh cho lòng ăn năn sám hối của mình.


- Hồi hướng phát nguyện lễ:
cách lễ nầy là hành giả phải bối trần hiệp giác, phát nguyện làm những điều lành, tránh xa các điều dữ, có bao nhiêu công đức phúc thiện đều hồi hướng về quả Vô thượng Bồ đề.


Đứng về phương diện Lý lễ cũng có 4 cách:


- Phát trí thanh tịnh lễ:
cách lễ nầy hành giả đem tâm thanh tịnh mà lễ, bởi tất cả cảnh giới của chư Phật đều từ tâm hiện bày. Do đó, lạy một vị Phật là lạy tất cả chư Phật. Lạy một lạy là lạy tất cả pháp giới, vì pháp thân của Phật dung thông trùm khắp. Dụ như, tất cả bóng đèn đều có chung một dòng điện vậy.


- Biến nhập pháp giới lễ
: cách lễ nầy hành giả nên quán sát thân tâm cùng pháp giới không rời nhau. Pháp giới tánh trùm khắp mười phương, ở thánh không tăng, ở phàm không giảm, tánh vốn không hai, hành giả thể nhập sống với "tánh không hai" nầy gọi là Biến nhập pháp giới lễ.


- Chánh quán lễ:
Cách lễ nầy là hành giả nên lễ ông Phật tự tâm mình, không nên chạy ra ngoài tìm cầu, vì mỗi chúng sanh đều sẵn có tánh giác, gọi là Phật tánh viên mãn, bình đẳng và chân giác.


- Thật tướng bình đẳng lễ:
Cách lễ nầy là hành giả không còn thấy có hai, tự và tha hay năng và sở khác nhau, tất cả đều có chung một thể tánh, tức vạn vật đồng nhứt thể. Đó là năng lễ sở lễ tánh không tịch. Lễ Phật như vậy, mới thực sự là thể hiện trọn vẹn Lý hành lễ vậy.

Nói gọn cho Phật tử dễ hiểu là lạy Phật có Sự lạy và Lý lạy. Qua hai cách chính nói trên, thì đại đa số Phật tử chúng ta đều nghiêng về phần Sự lễ hơn là Lý lễ. Ngay cả phần Sự lễ thôi, đôi khi chúng ta thật hành còn không đúng cách nói chi là phần Lý lễ. Nhưng chúng ta cũng cần nên hiểu cả hai cách lễ Phật vậy.


80. Trong Phật giáo có mấy loại thực? Và mỗi loại thực ý nghĩa như thế nào?


Hỏi:
Kính bạch thầy, xin thầy có thể giải thích cho con hiểu, trong Phật giáo có nói đến nhiều loại thức ăn, nhưng con chưa biết có bao nhiêu loại? Và mỗi loại thức ăn nó có ý nghĩa như thế nào? Kính mong thầy từ bi giải thích cho con được rõ.


Đáp:
Thông thường Phật giáo nêu ra có bốn loại thức ăn: Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực.


-
Đoàn thực, là những loại thức ăn mà chúng ta ăn bằng miệng. Khi ăn chúng ta cũng phải sử dụng đến Chánh kiến để phân biệt các loại thức ăn cho hợp lý. Ăn uống là một nhu cầu thiết yếu cho sự sống. Sống là phải ăn uống, nhưng ăn uống như thế nào cho hợp lý đó mới là điều quan trọng. Không phải thức ăn, thức uống nào cũng đem lại sự bổ dưỡng ích lợi cho cơ thể ta. Có những loại thực phẩm tự nó chứa quá nhiều độc tố. Ta phải biết phân loại thức ăn và chỉ ăn những loại thức ăn nào có sinh tố bổ dưỡng không làm hại cơ thể ta. Nhưng phải ăn cho có điều độ. Ăn uống tuy là một nhu cầu thiết yếu cho sự sống nhưng nó cũng rất là phức tạp. Nếu ta không có Chánh kiến để nhận định phân biệt kỹ càng thì cũng rất là tai hại trong khi tiêu thụ thực phẩm. Tục ngữ có câu: "Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập". Đây là một câu nói đầy kinh nghiệm của người xưa. Ta nên lưu ý và cẩn thận vấn đề nầy. Câu nói: "Ăn để mà sống, chớ không phải sống để mà ăn". Ăn để mà sống là nói về Đoàn thực. Ta chỉ cần ăn uống đạm bạc để sống qua ngày là được rồi. Đâu cần phải ăn uống cầu kỳ, cao lương mỹ vị, mới sống được. Ăn chay là tốt nhứt cho đời sống hiện nay. Mặc dù các loại thực phẩm hiện nay, không có loại thực phẩm nào thuần khiết không bị nhiễm độc. Chẳng qua ít hay nhiều đó thôi. Bởi môi trường sinh thái hiện nay bị ô nhiễm rất nhiều. Tuy nhiên, đối với các loại thịt cá thì có thể bị ảnh hưởng chất độc nhiều hơn. Phật dạy khi ăn ta cần phải có chánh quán, chánh niệm. Chánh quán là ta phải quán sát kỹ lưỡng thức ăn, thức uống mà ta đang dùng cái nào có lợi hay có hại cho ta. Chánh niệm là ta ăn để nuôi dưỡng cơ thể mà không gây tổn hại cho mình và người rộng ra cho đến muôn loài. Đừng vì miếng ăn ngon béo bổ của mình mà gây ra đau khổ cho loài khác. Vì thế, Phật dạy không nên sát hại sinh vật để ăn là thế.


- Loại ăn thứ hai là xúc thực.
Loại ăn nầy là ăn qua sáu căn của ta. Xúc có nghĩa là căn và cảnh giao tiếp nhau. Nói rõ và cụ thể hơn là sáu căn của ta ăn qua sáu trần cảnh. Nói trần là khi tâm ta còn bị nhiễm trước. Nói cảnh là khi tâm ta thanh tịnh. Trần hay cảnh cũng đều từ tâm ta mà ra. Khi căn và trần tiếp xúc cũng có hại và cũng có lợi. Có hại là khi ta tiếp xúc đem chất độc vào mình. Ví dụ, như khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với sắc trần. Khi ấy nếu ta thiếu chánh kiến, chánh niệm thì ta có thể đưa vào trong cơ thể ta toàn là những chất độc hại như: sợ hãi, căm thù, ganh ghét, bực tức, bạo động v.v...Có những loại phim mang tính xây dựng xã hội tốt đẹp thì ta nên xem. Xúc thực nầy đối với con em của chúng ta cũng rất có lợi mà cũng rất có hại. Nếu khéo biết điều hướng chúng xem những loại phim hay, thì rất có lợi mở mang thêm kiến thức học hỏi của chúng, bằng trái lại, thì mang lại cho chúng nhiều điều tai hại. Bởi chúng chưa có đủ trình độ nhận định, tức chưa có chánh kiến và chánh niệm. Thế nên, các bậc phụ huynh cũng nên lưu ý quan tâm về vấn đề xúc thực nầy. Cần hướng dẫn cho chúng nó coi những loại phim nói lên được tính xây dựng tình người, có lòng từ ái bao dung, tha thứ, nhất là tình thương đồng loại v.v... Đó là cách thực tập cho chúng có được chánh kiến, chánh quán ... trong đời sống sau nầy.


Tóm lại, xúc thực rất quan trọng trong đời sống tinh thần. Ta cần tiếp xúc những gì đem lại lợi lạc cho đời sống tâm linh của ta. Tuyệt đối, ta không nên tiếp xúc những gì mang lại có hại cho tinh thần ta. Bởi những thứ đó nó có năng lực tàn hại cả thân tâm ta, thế thì ta cần phải tránh xa chúng nó.


-
Loại thức ăn thứ ba là Tư niệm thực. Tư niệm là nhớ nghĩ là những ước mơ mong muốn thực hiện một điều gì đó có lợi cho ta. Như mong muốn đỗ đạt thành danh hoặc là mong muốn có được giàu sang trở thành triệu phú v.v... những mong muốn đó trở thành như loại thức ăn của tư tưởng ta. Những điều mong muốn đó mà không được toại nguyện tất nhiên là ta phải đau khổ. Tuy nhiên, có những lại tư niệm thực cũng giúp ích cho ta rất nhiều trong cuộc sống. Như những ước muốn có được thân thể tráng kiện, mạnh khỏe vui tươi, muốn tu tập chuyển hóa vô minh phiền não để trở thành một bậc giác ngộ giải thoát để độ thoát cho đời thoát khỏi khổ đau v.v... Đó là loại tư niệm thực có thể đưa ta tới an lạc và hạnh phúc.


- Loại thức ăn thứ tư là thức thực
. Thức là phân biệt là hiểu biết. Đời sống của ta đều do sự biểu hiện của thức. Sự biểu hiện nầy không ngoài chánh báo và y báo. Chánh báo là con người gồm có năm uẩn và y báo là môi trường hoàn cảnh chung quanh ta. Chánh báo và y báo là kết quả của hành nghiệp mà ta đã gây tạo trải qua nhiều đời trong quá khứ. Cả hai chánh và y báo đều do sự biểu hiện của tâm thức. Khi ta tiếp xúc ngoại cảnh hay nhận thức một công việc nào đó, tất nhiên là ta phải sử dụng đến ý thức. Ngoại cảnh và công việc do thức tiếp xúc phân biệt được xem như là một loại thức ăn của thức. Dĩ nhiên, có những loại thức ăn tốt cho thức nhưng cũng có những loại thức ăn không tốt cho thức. Ví dụ những gì thấy, nghe, ngửi, nếm, suy tư, tưởng tượng v.v.. tất cả những thứ đó như những dòng sông chảy về biển tâm thức. Hận thù, ganh ghét, buồn khổ... những thứ phiền não nầy là những loại thức ăn chứa nhiều chất độc tố làm hại cho tâm thức ta. Ta nhứt quyết loại trừ chúng nó ra khỏi tâm thức ta. Ta nên đem những loại thức ăn có đầy đủ chất bổ dưỡng cho tâm thức như từ bi, hỷ xả ... Đó là ta khéo biết chọn những loại thức ăn cho tâm thức của ta vậy.