Câu Hỏi 01-19

Thứ Sáu, 20 Tháng Năm 20169:35 CH(Xem: 3770)
Câu Hỏi 01-19

100 CÂU HỎI PHẬT PHÁP TẬP 3
Thích Phước Thái

1. Cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà có phải ở trong Tam giới không?


Hỏi:  Bạch Thầy, con có ba câu hỏi mong thầy giải đáp cho con được rõ:


1. Cõi Cực lạc của đức Phật A Di Đà là thuộc trong Tam giới hay ngoài tam giới?


2. Cõi Cực lạc là do tâm thức biến hiện ra hay thật có?


3. Cõi Cực lạc có gần với chân không, chân như không?


Đáp: Qua ba câu hỏi của Phật tử, tôi xin lần lượt giải đáp để cho Phật tử hiểu rõ thêm.


1. Về câu hỏi thứ nhứt, tôi xin xác quyết ngay là cõi Cực lạc không thuộc trong phạm vi Tam giới. Nhưng trước hết, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần nên hiểu Tam giới là gì? Trong quyển Từ Điển Phật Học Huệ Quang tập V trang 4103 có giải thích Tam giới như sau: "Tam giới là ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.


- Dục giới (Kàma-dhàtu) : Thế giới của những loài hữu tình còn các tính dâm dục, tình dục, sắc dục, thực dục. Trên từ cõi trời Tha hóa tự tại thứ 6, giữa là cõi người, dưới đến địa ngục Vô Gián; vì nam nữ ở lẫn lộn, nhiều thứ dục nhiễm nên gọi là Dục giới.


- Sắc giới (Rùpa-dhàtu): Sắc nghĩa là biến ngại hoặc thị hiện, là thế giới của những loài hữu tình đã xa lìa dâm dục và thực dục của cõi Dục, nhưng vẫn còn sắc chất thanh tịnh. Thế giới nầy ở trên Dục giới, không có dục nhiễm, cũng không có thân nữ, chúng sinh ở đây đều do hóa sinh, cung điện cao lớn, là do sự hóa sinh của Sắc tất cả đều rất vi diệu, tốt đẹp. Vì còn có sắc chất, nên gọi là Sắc giới. Tùy theo thiền định sâu cạn, thô diệu mà cõi nầy được chia làm 4 bậc, từ sơ thiền Phạm thiên cho đến cõi trời A ca rị tra, tất cả có 18 tầng trời.


- Vô sắc giới (Arùpya-dhàtu): Thế giới của những loài hữu tình chỉ có: Thụ, tưởng, hành, thức. Thế giới nầy không có một thứ gì thuộc về vật chất, cũng không có thân thể, cung điện, cõi nước, chỉ có tâm thức trụ sâu trong thiền định nên gọi là Vô sắc giới. Thế giới nầy ở trên Sắc giới, gồm có Tứ thiên ( Không vô biên xứ thiên, Thức vô biên xứ thiên, Vô sở hữu xứ thiên và Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên), còn gọi Tứ vô sắc, Tứ không xứ.


Quả báo của Tam giới nầy tuy có hơn kém, khổ vui khác nhau nhưng đều thuộc cõi mê, là những thế giới sinh tử luân hồi của chúng sinh, các bậc Thánh đều lìa bỏ.


Theo Phẩm Thí Dụ Kinh Pháp Hoa ghi: "Ba cõi không an, giống như nhà lửa, các khổ đầy dẫy, rất đáng sợ hãi".


Nêu ra như thế để Phật tử thấy rằng, cõi Cực lạc không thuộc trong phạm vi Tam giới. Không ở trong Tam giới, tất nhiên là phải ở ngoài Tam giới. Trong Kinh Di Đà Tiểu Bổn, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói: "Từ thế giới nầy đi về bên cõi Tây phương Cực lạc phải trải qua mười muôn ức Phật độ, có một thế giới, gọi là Cực lạc. Cõi ấy có Phật hiệu A Di Đà hiện đang thuyết pháp". Lời dạy nầy là đức Phật nhằm xác quyết cho chúng ta biết có cõi Cực lạc ở ngoài Tam giới. Bởi chúng sinh ở cõi Cực lạc thụ hưởng những thứ vui cùng cực không có khổ như cõi Ta bà nầy, nên gọi cõi đó là Cực lạc.


2. Cõi Cực lạc không phải do tâm thức biến hiện mà là một cõi có thật. Điều nầy, trong Kinh Di Đà đức Phật đã diễn tả cho chúng ta thấy rất rõ. Một thế giới có đầy đủ chánh báo và y báo trang nghiêm thù thắng vi diệu, thì sao gọi là tâm thức biến hiện được? Nói tâm thức biến hiện là cái không có rồi mình tưởng tượng ra cho có. Như ngồi trong nhà tưởng tượng như có con quỷ hung dữ ở ngoài sân, kỳ thật ngoài sân không có con quỷ. Hoặc giả dưới ánh trăng soi thấy tàu lá chuối rung rinh tưởng là bóng người áo trắng đang lay động. Thấy gốc cây to trong đêm mờ ảo ta tưởng là con ma v.v... Đó gọi là do thức biến hiện ra. Còn cõi Cực lạc là do đức Phật A Di Đà dùng công đức trang nghiêm mà tạo thành. Với 48 điều đại nguyện của Đức Phật cũng đủ để chứng minh cho chúng ta thấy rất rõ điều đó. Một cảnh giới nếu chỉ do tâm thức biến hiện ra, thì cảnh giới đó không thật. Nếu chúng ta tha thiết chuyên cần trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tương tục không gián đoạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Đà và các hàng Thánh chúng tiếp dẫn chúng ta về cõi nước của Ngài. Vì đó là bản nguyện tiếp dẫn độ sanh của Ngài. 


3. Đã gọi là cõi có nghĩa là một thế giới ngoại tại, tất nhiên là phải có hình tướng, thì làm sao gần với chân không, chân như được. Vì chân không hay chân như không có hình tướng và không có sinh diệt. Đây là cảnh giới thân chứng, do sạch hết vô minh phiền não mà thể tánh chân như hiện bày. Tuy nhiên, tất cả các pháp đều không ngoài thể tánh chân như mà có. Cõi Cực lạc cũng không ngoài thể tánh chân như mà thành. Thí như tất cả cảnh vật không ngoài hư không mà có. Nhưng hư không không phải là chân như, vì hư không là vô tri. Cho nên,  thể tánh chân như bao trùm khắp hết muôn pháp vậy.


Nói tóm lại, cõi Cực lạc là một cảnh giới có thật và nó không thuộc trong phạm vi Tam giới, vì chúng sinh trong ba cõi vẫn còn bị sinh tử luân hồi và do đó, tất nhiên chúng sinh vẫn còn phải chịu nhiều điều đau khổ. Ngược lại, cõi Cực lạc vượt ngoài vòng luân hồi sống chết và không còn đau khổ như cõi Ta bà. 


Kính chúc Phật tử có đầy đủ chánh tín để niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc.


2. Thờ một vị Phật hoặc Bồ tát đến ngày vía cúng Phật Bồ tát khác có được không?


Hỏi: Kính thưa thầy, Thầy cho con hỏi hiện nay trong nhà con thờ hình tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, nhưng đến những ngày vía của các Vị Phật hoặc Bồ Tát khác, như ngày vía của Phổ Hiền Bồ tát, hay Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, con thiết lễ hoa quả và cúng bái các vị Bồ tát đó có được không? Xin thầy hoan hỷ trả lời cho con biết.


Đáp: Đối với chư Phật, Bồ tát trong lúc tu nhân thì mỗi vị đều có những bản nguyện và công hạnh khác nhau. Tuy nhiên, khi thành Phật hay thành Bồ tát rồi thì không có khác. Chỉ khác nhau trên danh xưng hoặc hình thức mà thôi, còn bản thể thì hoàn toàn không khác. Thí như bản chất vàng thiệt thì chỉ có một, nhưng những món đồ trang sức bày bán ở thị trường thì có khác. Tuy mỗi món đồ có khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một bản thể là vàng thiệt. Chư Phật, Bồ tát cũng thế. Mỗi vị Phật, Bồ tát tên gọi và bản nguyện độ sanh có khác nhau, nhưng thể tánh thì không hai. Tuy Phật tử thờ Thánh tượng Bồ tát Quan Thế Âm, hay bất cứ hình tượng Phật, Bồ tát nào khác, tới ngày lễ vía của các vị Phật Bồ tát đó, thì Phật tử cũng đều có thể thiết lễ hương hoa cúng bái được cả. Việc làm nầy không có gì sai trái đâu mà Phật tử lo sợ. Chỉ sợ là mình không thành tâm cúng bái các Ngài đó thôi.


Như đã nói, chư Phật, Bồ tát cùng đồng một thể tánh, nên Phật tử cúng một vị Phật hay Bồ tát thì các vị Phật, Bồ tát khác cũng đều chứng minh tấm lòng thành của Phật tử rồi. Dụ như trong nhà của Phật tử có nhiều bóng đèn, tuy các bóng đèn hình thể lớn, nhỏ, vuông, tròn, ngắn, dài có khác nhau, nhưng dòng điện thì chỉ có một. Tất cả đều có chung một dòng điện. Nếu không, thì tại sao khi mở công tắc tất cả đều cháy? Khi cúng vía cho vị Phật hay Bồ tát nào, thì Phật tử nên xưng danh hiệu của vị Phật hay Bồ tát đó mà đảnh lễ. Và đồng thời Phật tử cũng có thể niệm danh hiệu của các vị Phật hay Bồ tát khác. Điều nầy không có gì là sai trái lầm lỗi. Điều quan trọng là khi cúng đảnh lễ các Ngài, thì Phật tử phải hết lòng chí thành. Người xưa nói: "Chí thành thông Thánh". Tâm chí thành tha thiết hết sức quan trọng trong khi chúng ta tụng kinh, niệm Phật, hay lễ bái... có tâm chí thành tha thiết thì mới cảm ứng đến chư Phật và Bồ tát. Có thế, thì chúng ta mới tăng thêm phước đức và có an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại. Đó là điều rất hệ trọng mà chư Tổ và các bậc Tôn Đức thường khuyến nhắc chúng ta.


Kính chúc Phật tử và gia đình luôn được bình an hạnh phúc và tinh tấn tu hành niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc.


b>3. Luật nhân quả có công bằng không?


Hỏi: Kính thưa thầy, tại sao đời nầy có người làm ác mà họ lại được giàu có? theo luật nhân quả thì do đời trước họ bố thí nên nay họ mới được giàu có. Thế nhưng, tại sao họ lại không tiếp tục làm lành bố thí nữa mà họ lại làm toàn những việc xấu ác? Như vậy có trái với luật nhân quả không?


Đáp:  Đọc qua câu hỏi của Phật tử, tôi thấy Phật tử vừa nêu câu hỏi mà cũng vừa tự giải thích. Thật ra, có ba vấn đề mà Phật tử muốn biết. Nhân đây, tôi cũng xin nêu ra từng vấn đề một để tạm trao đổi giải thích đôi điều cho Phật tử hiểu thêm.


1. Phật tử thắc mắc: "Tại sao đời nầy có người làm ác mà họ lại được giàu có"?  Câu hỏi nầy rất là hữu lý. Điều thắc mắc nầy, không phải chỉ riêng gì Phật tử, mà tôi thiết nghĩ, cũng có nhiều người thắc mắc như thế. Sở dĩ, đời nầy họ làm ác mà họ được giàu có, là vì theo nhân quả, thì đời trước họ đã có thật hành ít nhiều hạnh bố thí. Tuy họ biết bố thí làm những việc từ thiện giúp người, nhưng họ không biết tu. Vì không biết tu nên những tập khí phiền não quá khứ của họ còn quá nhiều. Do đó, nên đời nay sanh ra họ hưởng cái quả báo bố thí của đời trước mà họ được giàu có. Đó là nói do tập nhiễm xấu ác đời trước của họ.


Còn đối với cái tập nhân xấu ác của đời nầy là do họ tiếp cận với môi trường sống của xã hội. Như thường giao du với các bạn bè xấu ác, bị ảnh hưởng tập nhiễm lâu ngày, nên họ mới trở thành người bất thiện. Như vậy, tuy hiện đời họ làm ác nhưng họ vẫn giàu có, đó là ta phải xét đến cái nhân quá khứ và cái nhân hiện tại. Giàu có là do cái nhân quá khứ họ biết làm phước giúp người. Phật tử nên nhớ, làm phước giúp người chưa phải là tu. Mà đó chỉ biết làm phước mà thôi. Tu là phải chuyển hóa ở nơi ba nghiệp: "thân, miệng, ý". Chuyển hóa nghiệp dữ thành nghiệp lành. Nếu làm phước mà trong tâm vẫn còn đầy dẫy; tham, sân, si, thì vẫn còn tạo nghiệp ác.


Như có người đang phân phát bố thí tài vật cho những người nghèo khổ hay bệnh tật, nhưng có ai đó lỡ làm trái ý nghịch lòng họ, thì ôi thôi! tam bành lục tặc của họ nổi lên như sóng cồn. Họ tía tai đỏ mặt, hung hăng bậm trợn la ó om sòm. Thậm chí có người còn nặng lời mắng nhiếc nữa. Như vậy, việc làm phước của họ, không những không được lợi ích mà nó còn gây thêm tội lỗi. Chẳng những người nhận bố thí không mang ơn họ, mà trái lại họ còn bị người ta oán ghét căm thù. Đó là nói nhân và quả hiện tại. Vì vậy, Phật tử nên nhớ, làm phước bố thí là một chuyện, nhưng phải khéo biết tu hành nữa. Nếu không biết tu hành thì cũng vẫn thọ quả báo khổ đau như thường. Tùy theo nghiệp ác nặng nhẹ mà mình đã gây tạo nên phải bị chiêu cảm lãnh lấy quả báo ác. Như có người, họ rất là giàu có, tiền kho bạc đụn, nhà cao cửa rộng, vật chất dồi dào, không thiếu thứ gì, nhưng bản thân của họ thì luôn luôn bị đau yếu bệnh hoạn rề rề trị chữa thuốc thang hoài mà vẫn không hết. Tại sao thế? Tại vì đời trước họ có làm phước bố thí giúp người, nhưng họ vẫn sát sanh hại vật quá nhiều, nên nay tuy họ giàu có, mà nghiệp sát sanh của họ vẫn phải trả. Nhân quả không thể lấy cái nầy bù qua cái kia được. Gieo cái nhân nào thì phải gặt hái cái quả báo đó.


2. Câu hỏi thứ hai, Phật tử thắc mắc: Tại sao họ lại không tiếp tục làm lành bố thí nữa mà họ lại làm toàn những việc xấu ác? Phật tử nên biết, không phải ai giàu có cũng làm lành bố thí tu nhân tích đức hết đâu. Dù đời trước họ có bố thí, nhưng không phải vì thế mà đời nầy sanh ra họ lại tiếp tục làm lành bố thí nữa. Bởi trong kinh có nói: "Bồ tát cách ấm còn mê". Đời nầy giàu có là do họ hưởng được cái phước báo của đời trước và cũng phải do cái nhân hiện tại nữa. Nhân hiện tại là họ siêng năng chịu khó làm ăn. Song có điều vì họ có phước nên làm đâu được đó. Dụ như có hai cửa hàng cùng buôn bán gần nhau, nhưng một cái, thì lại bán đắt như tôm tươi, khách hàng tới mua nườm nượp bán không kịp, còn một cái, thì lại bán ế ẩm vì vắng khách hàng tới mua. Như vậy, ta tự hỏi: tại sao hai cửa hàng cùng bán hàng hóa và giá cả giống nhau mà cái thì bán đắt, cái thì bán ế? Phải chăng cái cửa hàng bán đắt là do vì họ có phước, còn cái cửa hàng bán ế, là do vì họ kém phước. Do đó, cái phước báo hơn kém nhau là do ở chỗ gây nhân lành dữ không đồng. Đó là nói sự làm ăn tương đối có phần lương thiện. Tuy nhiên, không phải ai làm giàu cũng là lương thiện hết đâu.


Có người làm giàu trên sự đau khổ của kẻ khác. Họ bất chấp mánh mung, gian xảo, thủ đoạn miễn sao có lợi cho họ là được. Ai chết mặc ai, họ không một chút từ tâm thương tiếc. Đó là do lòng tham lam ham muốn làm giàu thúc đẩy họ. Nhưng sự giàu sang nầy thử hỏi họ hưởng được bao lâu? Có biết bao người làm giàu trên mồ hôi nước mắt, xương máu của kẻ khác, cuối cùng, họ cũng bị tiêu tan tán gia bại sản trắng tay không còn gì cả. Chính điều nầy mới là đau khổ ngút ngàn không biết phải than thở cùng ai! Đó cũng là nhân quả của thiên phải hoàn trả cho địa vậy.


3. Đến điều thắc mắc thứ ba, Phật tử kết luận: "Như vậy có trái với luật nhân quả không?" Tôi xin thưa ngay là không có gì chống trái cả. Qua những điều tôi tạm nêu ra trình bày ở trên, thiết nghĩ, Phật tử cũng thấy rõ được điều đó. Nghĩa là không có gì chống trái nhau. Hễ gây nhân nào tất nhiên là phải hưởng cái quả báo đó. Bởi luật nhân quả là một định luật tất yếu và rất công bằng. Không có một vật gì dù lớn như quả địa cầu hay nhỏ như hạt bụi li ti mà thoát ra ngoài luật nhân quả. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nên hiểu rõ thêm về chữ "luật" nói ở đây. Nói luật nhân quả, tất nhiên là khác với luật pháp ở thế gian. Bởi luật pháp ở thế gian là do con người đặt định ra. Như nói luật lệ giao thông, luật mua bán nhà đất v.v... Ngược lại luật nhân quả không ai tạo ra nó cả. Mà nó là một quy luật tự nhiên của vũ trụ. Nó tiềm tàng chi phối mọi vật thể. Cho nên, người ta gọi nó là thứ chân lý phổ biến bao trùm khắp cả sự vật.


Để Phật tử hiểu rõ hơn, tôi xin được giải thích thêm về lý nhân quả. Nhân là hạt giống, quả là trái hay kết quả. Như ta gieo hạt cam thì hạt cam là nhân của trái cam. Tuy nhiên, từ khi gieo hạt đến kết thành trái cam, nó còn đòi hỏi phải có các duyên, tức những điều kiện phụ thuộc. Cho nên, khi nói đến nhân quả là phải nói đến nhân duyên. Bởi giữa nhân quả và nhân duyên nó có sự quan hệ mật thiết với nhau. Nếu ta đem gieo hạt cam mà không có các trợ duyên phụ thuộc, thì hạt cam đó cũng không có kết quả. Ta có thể nói, hạt cam là chánh nhân là cái nguyên nhân chánh để sinh thành trái cam. Nhưng nếu chỉ có hạt cam không thôi thì làm sao thành trái cam? Do đó, nó còn đòi hỏi phải hội tụ đầy đủ các duyên, tức các điều kiện tốt để cho hạt cam phát triển tốt. Những điều kiện tốt đó như: đất, nước, ánh sáng mặt trời, không khí, phân bón, người chăm sóc v.v... Có đầy đủ những yếu tố đó thì mới giúp cho hạt cam sinh trưởng theo chiều thuận. Nếu những trợ duyên nghịch lại, thì chánh nhân không thành. Hoặc giả khi gieo nhân, nếu không chăm sóc kỹ lưỡng thì cái hạt nhân đó cũng không thành quả. Thí như ta gieo hạt cải, nhưng ta không để ý, bị lũ kiến tha hết, vài ngày sau ta thấy toàn là cỏ không. Như vậy, ta liền thắc mắc, tại sao ta gieo hạt cải mà kết quả lại là cỏ? Đó gọi là nghịch duyên. Vì thiếu sự quan tâm chăm sóc của ta. Cũng thế, có người đang làm lành như đi chùa, tụng kinh, niệm Phật v.v... bị một nghịch duyên nào đó xảy đến, thì họ lại bỏ ngang sự tu hành, như thế cái kết quả sẽ không được như ý họ. Hoặc có người làm công quả giúp cho chùa, ta thấy họ rất là tốt, lẽ ra họ sẽ được mọi người kính mến, nhưng vì họ nghĩ họ là người có công lao giúp cho chùa nhiều hơn những người khác, thế là họ sanh cái tâm cống cao ngã mạn khinh thường người khác, họ nặng lời chê bai quở trách mạ nhục những người cùng cộng sự với họ, thay vì họ được người ta kính mến, nhưng họ lại bị người ta oán hận thù ghét. Bởi do họ không khéo giữ ở nơi ý nghiệp và khẩu nghiệp của họ. Đó gọi là nghịch duyên. Chỉ cần một điều kiện nào đó đi ngược lại, thì cái chánh nhân kia sẽ bị thay đổi ngay. Vì thế ta cần phải lưu tâm cẩn thận điều nầy.


Điều ta nên chú ý hơn nữa là nhân quả được đặt định trên chiều thời gian. Nghĩa là từ nhân tới quả cần phải có thời gian. Thời gian là phải xuyên suốt qua ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai. Như Phật tử nói, đời nầy có người làm ác mà họ lại được giàu có. Dựa trên lý nhân quả Phật tử lại nói thêm, sở dĩ họ được giàu có là do đời trước họ bố thí. Nhân bố thí được hưởng quả giàu có. Điều nầy không sai. Như vậy, thì có phải nhân nào quả nấy không? Nhân quả như bóng theo hình, như vang theo tiếng. Hình thẳng thì bóng ngay, mà hình cong thì bóng vạy. Bởi thế, nên người ta mới nói nhân quả là luật rất công bằng, không thiên vị một ai. Luật nầy không có thể dùng đồng tiền lo lót chạy chọt hối lộ mà có thể thay đổi được.


Tuy nhiên, nhân quả cũng không phải cứng ngắc như thế. Ta cũng có thể chuyển đổi được. Ta chuyển ở nơi nhân chớ không phải chuyển ở nơi quả. Như trước kia, ta là kẻ xấu ác hay cờ bạc rượu chè say sưa nghiện ngập, hút chích xì ke ma túy, buôn lậu nha phiến, gây đau khổ cho nhiều người. Nay ta ý thức nhận định được cái hậu quả tai hại của việc làm đó, ta liền mạnh dạn dứt khoát không tiếp tục gây nhân xấu ác đó nữa. Chẳng những ta không gây nhân xấu ác mà ta còn làm những điều lành thi ân bố thí tương tế giúp người. Như thế, ngang đó, là ta sẽ hết khổ ngay. Thế là, từ cái nhân xấu ác ta chuyển thành cái nhân tốt đẹp. Đó là quyền chuyển đổi của ta. Nói cách khác, chuyển nghiệp cũng có nghĩa là ta chuyển đổi thói quen xấu thành thói quen tốt. Bởi thế nên nói tu là chuyển nghiệp chính là ý nầy vậy. Nếu tu mà không chuyển được nghiệp thì không ai tu hành làm gì.


Kính chúc Phật tử luôn sống trong ánh quang minh soi sáng của trí tuệ và chuyên tâm tu hành theo lý nhân quả mà hành thiện lợi mình, lợi người để được hưởng những quả báo tốt đẹp vậy.


4. Vợ chồng yêu thương nhau đời sau có gặp lại không?


Hỏi: Kính bạch thầy, vợ chồng sống chung yêu thương với nhau, nhưng con không hiểu, kẻ chết trước, người chết sau, kiếp tới có gặp lại nhau không? Kính xin thầy giải đáp cho con hiểu. Con kính cám ơn thầy.


Đáp: Vấn đề nầy còn tùy thuộc vào hai người, không thể đơn phương mà quyết định được. Dựa theo lý nhân quả Phật dạy, chúng tôi xin được trình bày góp chút thành ý như sau:


Việc gặp nhau hay không là do ở nơi mỗi người tự định đoạt lấy. Nếu như hai người cùng thề nguyền hẹn ước sẽ làm vợ chồng ở kiếp lai sinh thì điều đó, theo lý nhân quả, thật khó mà tránh khỏi. Bởi chính do cái niệm luyến ái yêu thương nồng nàn sâu đậm, nó tạo thành chất keo ràng buộc dính khắn thắt chặt hai người lại. Sự ràng buộc thắt chặt đó, không những trong hiện tại mà nó còn dính khắn kéo dài mãi đến mai sau. 

Dù cho sông cạn đá mòn

Thề non hẹn biển vẫn còn gặp nhau

Không luận chết trước chết sau

Còn duyên còn nợ kiếp sau vẫn còn.


Cái nhân của kiếp nầy là vậy, thì nó sẽ dẫn tới cái quả báo của kiếp sau cũng thế. Trừ phi, nếu một trong hai người không muốn tiếp tục cái cảnh vợ chồng nữa. Thí như bà đã ý thức chán ngán cái kiếp sống làm người có quá nhiều khổ đau hệ lụy, nên từ đó, bà không muốn tiếp tục làm người nữa để phải thọ khổ. Thế là mỗi người tự tìm hướng đi cho riêng mình. Tuy hai người vẫn còn yêu thương nhau, nhưng ông hoặc bà không muốn tiếp tục nữa. Như thế thì sẽ không bao giờ gặp nhau. Vì đường ai nấy đi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi, như thế, thì làm sao gặp được? Dụ như một người cứ cắm đầu lầm lũi đi tới, không bao giờ ngó ngoáy lại, còn người kia cứ đuổi rượt theo sau, thử hỏi như vậy hai người đó có gặp nhau không? Tất nhiên là không. Bởi vì nó không còn đồng cảm nghiệp quả với nhau nữa. Cái nhân đã thay đổi thì cái quả cũng sẽ thay đổi theo. Còn việc chết trước hay chết sau thì không thành vấn đề. Bởi do thề nguyền, nên dù chết trước hay chết sau gì rồi cũng sẽ gặp lại nhau mà thôi.


Thí như lúc còn sống, ông chồng có dịp phải đi nơi nào đó trước, và ông nói là sẽ hẹn gặp lại bà vợ sau. Khi đến nơi đó, dù giá nào ông cũng phải cương quyết chờ đợi cho bà đến kỳ được. Vì hai người có hẹn ước với nhau. Chỉ trừ trường hợp, bà thay lòng đổi ý là không đi hoặc là đi nơi khác, như thế thì mới không gặp lại nhau. Còn nếu bà quyết định đi đến nơi để gặp ông, chẳng ngại gian lao khó khăn cản trở, miễn sao gặp lại ông cho thỏa lòng mong nhớ là được. Đã thế, thì bảo sao không gặp lại nhau? Như vậy, dù có chết trước hay chết sau gì cũng sẽ gặp lại nhau mà thôi.


Việc nầy tùy mỗi người quyết định không ai có quyền quyết định thế cho ai được.


Kính chúc Phật tử có đầy đủ sáng suốt để chọn lựa cho mình có một hướng đi vững chắc an thoát tốt đẹp.


5. Niệm Phật nhưng còn ăn mặn có được vãng sanh không?


Hỏi: Kính thưa thầy, hằng ngày con niệm Phật, nhưng con không có ăn chay trường, như vậy chết con có được vãng sanh không?


Đáp: Việc ăn chay hay ăn mặn còn tùy vào cái căn duyên nghiệp quả sâu cạn của mỗi người. Người có căn duyên với Phật pháp sâu dầy thì việc ăn chay đối với họ phải nói không có gì là khó khăn lắm. Ngược lại, thì cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thậm chí, có người chỉ ăn chay một bữa thôi mà họ ăn còn không được thay! Huống hồ là ăn chay kỳ hay ăn chay trường. Vì khi cầm đũa lên là họ nhớ đến thịt cá. Do đó, xin đừng bắt họ phải ăn chay. Bởi biệt nghiệp của mỗi người sâu cạn, dầy mỏng có khác nhau. Nói thế, không có nghĩa là chúng ta phó mặc buông xuôi theo duyên nghiệp. Bởi nghiệp là do thói quen, ta cũng có quyền chuyển đổi thói quen xấu trở thành thói quen tốt. Nếu ta ý thức và cương quyết thì không có gì mà làm không được. Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: "Ăn thịt chúng sinh là đồng với sát hại chúng sinh vậy".


Nếu Phật tử niệm Phật mà lại thêm ăn chay trường nữa thì điều đó rất là quý giá. Tuy nhiên, nếu Phật tử ăn chay trường chưa được thì cũng nên tập dần. Nghĩa là mình cứ tăng dần ngày chay kỳ lên đến một lúc nào đó Phật tử cảm thấy không còn thèm thịt cá nữa, thì bấy giờ Phật tử ăn trường chay luôn. Phật Tổ lúc nào cũng khuyên bảo chúng ta nên ăn chay tránh sát hại sinh vật. Bởi sát sinh hại vật là tội lớn nhứt. Thế nên, chúng ta cố gắng tập ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi và tránh được quả báo oán thù.


Trường hợp của Phật tử dù chưa ăn chay trường được, nhưng nếu Phật tử vẫn cố gắng bền tâm niệm Phật và phải niệm Phật cho đúng cách theo lời Phật Tổ chỉ dạy trong kinh điển thì cũng sẽ được vãng sanh. Theo tôi, việc ăn chay tuy là quan trọng, nhưng cũng không quan trọng bằng mình chân thành tha thiết niệm Phật. Có người chỉ biết ăn chay trường thôi, còn việc tu hành niệm Phật thì họ lại coi thường lơ là lúc niệm, lúc không. Nghĩa là họ không có giữ vững lập trường trong việc tu niệm. Họ không có thành tâm tha thiết gì đến việc niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc cả. Thử hỏi ăn chay trường như thế có được lợi lạc tiến bộ gì trong việc tu hành không? Hay chỉ biết ăn chay trường là đủ rồi?  Họ nghĩ ăn chay như vậy là tốt lắm rồi không cần phải niệm Phật hay tu hành chi cho mệt. Quan niệm ăn chay như thế, thì trên bước đường tu hành giác ngộ giải thoát thật không đến đâu cả. Ngược lại, có người tuy họ chưa ăn trường chay được, nhưng họ chịu khó cần mẫn siêng năng bền chí tu hành và niệm Phật. Họ thành tâm tha thiết niệm Phật, và giữ thời khóa đều đặn trọn đời, như thế, thì chắc chắn là họ cũng sẽ được vãng sanh về Cực lạc. 


Nếu bảo rằng, chỉ có ăn chay trường niệm Phật mới được vãng sanh, thì xin hỏi trong hàng Phật tử của chúng ta có được bao nhiêu người ăn chay trường? Như vậy, chả lẽ những người không ăn chay trường thì họ niệm Phật không được vãng sanh hay sao? Sách sử ghi lại, có rất nhiều người không ăn chay trường mà họ chí thành niệm Phật thì cũng được vãng sanh kia mà! (Tuy họ không ăn chay trường, nhưng họ không có sát hại sinh vật. Họ chỉ ăn thịt cá theo tam tịnh nhục mà thôi). Nói thế, không có nghĩa là tôi biện minh hay khuyến khích cho việc ăn mặn (nói đúng phải nói là ăn mạng bởi giết hại sinh mạng mà ăn). Xin Phật tử chớ vội hiểu như thế. Phật Tổ lúc nào cũng khuyên bảo nhắc nhở người Phật tử chúng ta nên cố gắng trường chay. Vì lợi ích của việc ăn chay thì không ai có thể phủ nhận được. Bởi nó có nhiều điều lợi ích cho thân thể và tâm linh.


Phật dạy người Phật tử ăn chay trước tiên là vì lòng từ bi. Mình không thể ăn ngon miệng béo bổ để cung phụng cho cái xác thân hư huyễn, trên sự giãy chết kêu la thất thanh đau thương oằn oại của một con vật. Bởi tuy là loài vật, nhưng nó cũng có tánh linh hiểu biết và ham sống sợ chết như mình. Nếu mình ỷ mạnh mà ra tay giết chết chúng nó để ăn, thì quả thật là mình không có chút từ tâm! Bởi muôn loài đều có sự sống như nhau. Loài nào cũng ham sống sợ chết cả. Như vậy, theo lẽ công bằng, mình không muốn ai giết hại mình thì mình cũng đừng nên giết hại kẻ khác. Đó là mình khéo biết tôn trọng mạng sống với nhau. Sách Nho có câu: "Kỷ sở bất dục, vật ư thi nhân". Nghĩa là điều gì mình không muốn thì chớ nên làm cho người khác phải khó chịu. Mình sợ đau khổ thì tại sao mình lại đem cái đau khổ đến cho kẻ khác?


Ngoài lòng từ bi và tôn trọng mạng sống ra, ăn chay còn có được cái lợi thực tế là tránh được cái quả báo chồng chất oán thù, oan gia tương báo. Bởi theo luật nhân quả hễ có vay thì phải có trả. Có gây nhân tất nhiên phải có quả báo. Chẳng qua cái quả báo đó nó đến với mình có mau, chậm khác nhau đó thôi. Vấn đề nầy, chúng tôi cũng đã có bàn giải nhiều trong quyển 100 câu hỏi Phật pháp tập 2, nên ở đây chúng tôi không muốn luận giải dong dài.


Trở lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử nói là Phật tử niệm Phật mà không có ăn chay trường, như vậy khi lâm chung Phật tử có được vãng sanh hay không? Xin thưa ngay là Phật tử đừng lo sợ không được vãng sanh. Không phải ai niệm Phật hay tu hành cũng đều ăn chay trường hết. Tuy nhiên, nếu Phật tử vừa niệm Phật mà vừa giữ được trai giới thanh tịnh nữa, thì việc vãng sanh của Phật tử có phần bảo đảm vững chắc hơn. Còn nếu như Phật tử chưa ăn chay trường được, thì cứ vẫn giữ ăn chay kỳ. Điều quan trọng không phải là chay hay mặn, trường hay kỳ, mà quan trọng là ở chỗ công phu tu hành niệm Phật của Phật tử. Nếu ăn chay trường, mà lười biếng niệm Phật, một ngày niệm năm ba ngày nghỉ, như thế, thì thử hỏi có được vãng sanh hay không? Vả lại, ăn chay cũng chưa phải là tu.


Ở đời, ta thấy có lắm người miệng thì ăn chay mà lòng họ không có chay lạt chút nào. Ai đụng đến họ thì họ nổi sân si lên, phùng mang trợn mắt hung hăng dữ tợn, quyết sống chết một mất một còn với người đó. Hạng người nầy người ta gọi họ là khẩu Phật mà tâm xà. Như vậy, họ chỉ biết ăn chay chớ họ đâu có biết tu hành gì! Người biết tu hành là phải dẹp bớt tham, sân, si, cho lòng mình được trong sáng an lạc nhẹ bớt những gánh nặng ưu phiền. Bởi niệm Phật cũng cốt là để dứt trừ phiền não cho tâm mình được an định. Đồng thời, cũng phải hằng sửa đổi điều chỉnh ở nơi ba nghiệp: "Thân, Ngữ, Ý" của mình. Có thế thì mới tiến bộ trên bước đường tu tập. Cái quan trọng thì chúng ta lại thờ ơ coi thường không quan tâm lưu ý đến, mà chỉ quan tâm đến việc ăn chay, ăn mặn. Như thế thì việc tu hành của chúng ta làm sao tiến bộ được?


Nếu như Phật tử niệm Phật tha thiết chí thành và phải cố gắng tinh cần niệm Phật miên mật tương tục, nhiếp tâm thành ý, không luận thời gian và nơi chốn, lúc nào, ở đâu, làm gì, Phật tử cũng đều chuyên tâm niệm Phật. Được thế, thì lo gì Phật tử sẽ không được vãng sanh. Dù Phật tử chưa ăn chay trường nhưng Phật tử vẫn được vãng sanh. Điều nầy không phải là điều ức đoán hay nói ngoa, mà là một sự thật  chư Phật Tổ đã dạy chúng ta như thế. Xin Phật tử hãy yên tâm niệm Phật và cố gắng tu hành nhất là gìn giữ ở nơi ba nghiệp cho được thanh tịnh. Khi ba nghiệp hằng thanh tịnh thì đồng Phật vãng Tây phương.


Kính chúc Phật tử luôn tinh tấn chuyên cần tu tập chóng đạt được kết quả như ý muốn.


6. Nằm mơ thấy lằn khói trắng từ trong hòm bay lên, hiện tượng này như thế nào?


Hỏi: Kính bạch thầy, con có một thắc mắc ôm ấp mãi mà không biết hỏi ai, nay xin nhờ thầy giải đáp giùm. Số là mẹ con mất năm 1995, khi cúng tuần thất cuối, đêm thứ 48, em trai út của con nằm mơ thấy nắp hòm của mẹ con tự nhiên bật nắp ra, có một lằn khói trắng bay lên cao, như vậy, có phải mẹ con đã được siêu thoát không?


Đáp: Qua câu hỏi nầy, xin thưa thật với Phật tử, tôi không phải là nhà tiên tri chuyên đoán giải mộng. Vì thế, chắc chắn là tôi sẽ không làm cho Phật tử hài lòng qua sự băn khoăn thắc mắc đó. Dù tôi cũng rất cảm thông cho tâm trạng của Phật tử luôn ưu tư nghĩ đến mẹ mình. Vì không biết mẹ mình có được siêu thoát hay không? Nếu Phật tử hỏi những chiêm tinh gia chuyên đoán giải mộng, thì có thể họ sẽ trả lời cho Phật tử thỏa mãn hơn. Tuy nhiên, để khỏi phụ lòng Phật tử đã hỏi, thì tôi cũng xin góp chút ngu ý trong vấn đề nầy.


Về những điềm mộng trong chiêm bao, chúng tôi cũng đã có giải thích đại khái trong câu hỏi 36, trang 118 của quyển sách 100 câu hỏi Phật pháp tập 2, xin Phật tử đọc lại thì sẽ rõ hơn. Đã nói là mộng thì không thật. Tuy nhiên, cũng có nhiều điềm mộng mà nó báo hiệu cho người ta biết trước những việc sắp xảy ra. Điềm mộng nầy được gọi là "Thiện ác tiên triệu". Nghĩa là báo trước việc lành dữ cho người ta biết. Việc em trai út của Phật tử chiêm bao thấy điềm mộng đó, thú thật, tôi không thể nào dám xác quyết là có hay không. Nếu bảo rằng có thì tôi căn cứ vào đâu mà dám quả quyết như thế. Vì điều gì mình chưa hiểu rõ thì tôi không dám nói càng. Còn nếu nói không, thì tôi cũng không thể khẳng quyết là không. Tuy nhiên, theo lời Phật dạy, việc người chết có được siêu thoát hay không, chúng ta hãy nhìn vào đời sống thực tế hằng ngày của họ khi họ còn sinh tiền. Nếu là một người tu nhân tích đức hiền thiện ăn chay, giữ giới, niệm Phật, tu hành chân chính, thì không những sau khi chết mới được siêu thoát mà họ đã được siêu thoát ngay trong đời sống hiện tại rồi. Trong Kinh Pháp Cú Phật dạy:

Dục tri tiền thế nhân,

Kim sanh thọ giả thị

Yếu tri lai thế quả

kim sanh tác giả thị.


Nghĩa là:


Nếu mình muốn biết đời trước của mình như thế nào, thì hãy nhìn cái quả báo mà mình đang thọ lãnh ở hiện tại. Còn mình muốn biết cái quả báo đời sau của mình như thế nào, thì mình hãy coi hiện tại mình đã và đang gây tạo những nghiệp nhân gì. Không cần phải đi xem tướng coi bói soi căn chi cả. Người Phật tử mà còn coi nầy, xem kia, thì quả thật chúng ta chưa thực sự tin vào lý nhân quả Phật dạy. Nếu thế, thì chúng ta sẽ trở thành là kẻ mê tín, tà kiến.


Nêu ra lời Phật dạy trên, để Phật tử quán chiếu lại đời sống hành nghiệp của mẹ mình khi còn sinh tiền. Nếu bà tạo thiện nghiệp, tất nhiên là cảm thọ quả báo lành. Như thế, thì sẽ thác sanh về cảnh giới lành. Ngược lại, nếu tạo ác nghiệp, tất nhiên, là sẽ phải chiêu cảm thọ quả báo ác. Đó là theo luật nhân quả gây nhân gì thì phải thọ quả báo đó. Tuy nhiên, ngoài tích lũy nghiệp ra, nó còn có cận tử nghiệp. Nghĩa là cái nghiệp nhân xảy ra khi con người sắp chết. Nếu một người, lúc sắp lâm chung mà khởi niệm lành thì khi nhắm mắt sẽ theo nghiệp lành. Ngược lại, thì sẽ theo nghiệp ác. Tuy nhiên, theo kinh nói, thọ báo của cận tử nghiệp không lâu. Cuối cùng, cũng trở lại tích lũy nghiệp. Tức cái nghiệp lành hoặc nghiệp ác mà mình đã gây tạo chất chồng trong nhiều đời và hiện đời.


Tóm lại, qua câu hỏi nầy, thú thật chúng tôi không thể trả lời dứt khoát có hay không được. Chúng tôi chỉ nêu ra lời Phật dạy về lý nhân quả báo ứng rồi tùy Phật tử suy niệm. Bởi đây là một điều ngoài sự hiểu biết của chúng tôi. Nếu không khéo chúng ta sẽ rơi vào mê tín dị đoan vậy.


Kính cầu nguyện cho hương linh thân mẫu của Phật tử chóng được siêu sanh thoát hóa. Và kính chúc Phật tử có đầy đủ chánh tín Tam bảo và nhân quả để thể hiện ngay trong đời sống hiện tại sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho Phật tử vậy.


Kính chúc Phật tử có một niềm tin vững chắc theo đúng hướng chân lý nhân quả để được nhiều lợi lạc trong cuộc sống.


7. Tụng kinh không hiểu ý nghĩa như thế có được lợi ích gì không?


Hỏi: Kính bạch thầy, hằng đêm con tụng Kinh Di Đà mà con không hiểu gì hết, con nghĩ tụng đọc mà không hiểu thì biết đâu mà thật hành và không thật hành thì làm sao có được lợi ích? Kính mong thầy từ bi giải đáp cho con hiểu.


Đáp: Qua câu hỏi trên, tôi rất cảm thông cho nỗi lòng băn khoăn lo âu của Phật tử. Mặc dù Phật tử có cái tâm tu hành, siêng năng tụng đọc kinh điển, nhưng khổ nỗi là không hiểu nghĩa lý gì ở trong kinh nói. Điều nầy, đâu phải chỉ có một mình Phật tử như thế, mà đại đa số Phật tử chúng ta đều mắc phải. Người Phật tử tại gia đâu phải ai cũng thông suốt nghĩa lý kinh điển. Thậm chí ngay cả những người xuất gia ở chùa, nếu không chịu khó nghiên tầm học hỏi thì họ cũng không thể nào hiểu được kinh điển Phật dạy. Do dó, là Phật tử dù tại gia hay xuất gia, Phật Tổ thường khuyến nhắc chúng ta phải nên cố gắng nghiên cứu học hỏi kinh điển. Tuy nhiên, đối với người Phật tử tại gia vì bận rộn công việc mưu sinh nên ít có thời giờ rảnh rỗi để tới chùa nghe pháp hay học hỏi giáo lý như người xuất gia. Thật ra, kinh điển Phật dạy nghĩa lý thậm thâm vi diệu, đâu có ai dám tự hào là mình đã thông suốt hết, ngoại trừ những bậc tu hành đạt đạo, mới có thể thông suốt ở nơi lý mầu của ba tạng kinh điển mà thôi. Như đời Đường thì có Ngài Huyền Trang và đời Diêu Tần thì có Ngài Cưu ma la thập v.v... những vị nầy được gọi là Tam tạng pháp sư, vì các Ngài đã lão thông ba tạng kinh điển.


Ngoài ra, phàm phu như chúng ta thì chỉ hiểu được chút ít phần nào đó thôi. Nhưng với điều kiện là chúng ta phải thường xuyên nghe pháp học hỏi với những bậc Thầy có trình độ thâm hiểu giáo lý khá. Vì kinh là ghi chép lại những lời Phật dạy để chúng ta tìm hiểu học hỏi và tụng đọc. Nếu tụng kinh mà không hiểu nghĩa lý trong kinh Phật dạy điều gì thì quả đó là cái khuyết điểm lỗi lầm của người Phật tử chúng ta. Cho nên, là Phật tử chúng ta nên cố gắng, bằng mọi phương cách để tìm hiểu học hỏi, tùy theo hoàn cảnh, phương tiện, và thời giờ của mỗi người. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh sống có khó khăn hay thời giờ ít ỏi, thì chúng ta cũng nên khéo sắp xếp công việc làm ăn và dành chút ít thời gian để nghiên tầm học hỏi giáo lý Phật dạy. Đó là chúng ta khéo biết trau dồi trí tuệ cho chúng ta. Người xưa thường nói: "Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãi sách". Vì thế học và tu phải được đi đôi song hành với nhau. Học, như người có đôi mắt sáng, thấy rõ đường đi nước bước, tránh được nguy hiểm hầm hố chông gai. Tu, như người có đôi chân mạnh vững vàng tiến bước mà không sợ ngã qụy giữa đường. Học là tri, tu là hành. Người tu phải trang bị cho mình: "Tri hành hợp nhứt". Nghĩa là hiểu và làm phải đi đôi với nhau không thể thiếu một được.


Phật tử nên nhớ rằng, tất cả sự nghiệp thế gian, một khi xuôi tay khép kín đôi mắt lại rồi, thì tất cả đều bỏ lại cho đời, không mang theo được một vật gì cả. Chỉ có mang theo nghiệp thiện ác và những hạt giống trí tuệ mà mình đã gây tạo đó thôi. Vì những thứ nầy luôn bám sát không bao giờ rời xa mình. Ý thức được điều đó, chúng ta nên cố gắng tu tạo phước lành và tài bồi trí tuệ. Kinh nói: "Phước trí nhị nghiêm" hay "phước trí lưỡng toàn phương tác Phật". Nghĩa là người Phật tử phải tu cả hai vừa tu phước mà cũng vừa tu huệ nữa. Có thế, thì mới mong thành Phật được. Nếu chỉ nghiêng nặng tu một bên, thì chẳng khác nào như xe một bánh, chim một cánh. Đã thế, thì thử hỏi làm sao viễn hành thiên lý  cho được?


Tóm lại, việc Phật tử tụng kinh, tuy chưa hiểu được nghĩa lý trong Kinh Phật dạy, nhưng Phật tử vẫn được có phước báo. Vì trong lúc Phật tử ngồi tụng kinh là Phật tử đang thu nhiếp tam nghiệp. Thân thì ngồi nghiêm trang, miệng thì tụng đọc từng lời kinh, ý thì đang dõi theo từng chữ để đọc tụng. Như thế, ai dám bảo là Phật tử không được lợi ích? Chỉ sợ mình lười biếng không có tụng đọc thì mới không được lợi ích đó thôi. Tuy nhiên, trong ba nghiệp thân, miệng, ý, điều quan trọng là ý nghiệp. Nếu ngồi tụng đọc mà Phật tử để cho ý tưởng của mình quen theo đường cũ suy tưởng nghĩ nhớ lung tung, thì đó mới thực sự là không được lợi ích bao nhiêu. Nếu không khéo, chúng ta sẽ trở thành cái máy tụng đọc vậy.


Nguyện cầu Phật lực gia hộ cho Phật tử luôn được mạnh khỏe, chuyên cần tinh tấn, hằng trau dồi trí tuệ ngày càng tiến bộ trên bước đường tu học Phật pháp.


8. Giữa Phật tánh và pháp tánh khác nhau hay giống nhau?


Hỏi: Kính bạch thầy, trong kinh có nói đến Phật tánh và pháp tánh, nhưng con không hiểu hai cái đó là giống nhau hay khác nhau? Mong thầy giải đáp cho con.


Đáp: Hai cái đó có khác mà cũng không khác. Nói thế đối với luận lý của Tây phương thì thật là khó hiểu. Bởi người Tây phương họ nói trắng là trắng hoặc đen là đen. Không thể nói giữa trắng và đen có khác mà cũng không khác. Bởi vậy, người Tây phương có những điều họ không thể hiểu nổi cái luận lý độc đáo của Đông phương. Bởi họ quen nhìn theo cái lối cục bộ phiến diện. Nói khác, vì Phật tánh là chỉ cho loài hữu tình, còn pháp tánh là chỉ cho loài vô tình. Như vậy là khác. Tuy nhiên, nói không khác là vì chúng ta dùng trí huệ (Phật tánh) nhận ra pháp tánh. Người nào giác ngộ nhận ra được pháp tánh thì gọi người đó là Phật.


Thí như vạn vật ở thế gian là vô thường, nhưng ngặt vì mình chưa tỉnh ngộ, nên thấy mọi sự vật là thường còn. Cũng như các pháp là vô ngã, nhưng vì mình chưa giác ngộ, nên thấy mọi vật đều là thật ngã. Đó là nói trong vòng mê chấp thì ai cũng thấy như thế. Tuy nhiên, đến khi tỉnh ngộ rồi, mình thấy vạn vật đều là vô thường, vô ngã. Như vậy, bản chất của các pháp vốn là vô thường, vô ngã, nhưng vì mê muội nên mình không nhận ra được điều đó. Đến khi tu hành thực sự giác ngộ rồi, mình mới nhận ra các pháp là vô thường và vô ngã. Thế thì cái lý vô thường, vô ngã nó sẵn có tiềm tàng trong mọi sự vật. Đó gọi là pháp tánh, tức tánh thể của muôn pháp trước sau là như vậy. Mặc dù tánh thể của vạn pháp vốn là như thế, nhưng nếu không có cái trí giác để nhận ra lẽ đó thì cũng không ai biết được. Cái trí huệ nhận ra đó được gọi là Phật tánh. Ai nhận ra điều đó? tất nhiên là con người, tức hữu tình giác. Có điều ta cũng cần nên lưu ý, cái lý vô thường, vô ngã, không phải do ai tạo ra cả. Đức Phật, Ngài cũng chỉ là người do sau khi giác ngộ mà nhận ra đó thôi. Mặc dù cái sẵn có mà mình không nhận biết, đến khi giác ngộ được pháp đó, thì thành Phật. Nên nói tuy hai mà không phải hai và cũng không thể nói một được. Vì giác ngộ pháp đó mà được thành Phật thì Phật cũng không ngoài pháp tánh mà thành tựu được đạo quả. Thế nên, nói một là sai mà nói hai thì không đúng, tức khác mà không khác vậy.


9. Hạt minh châu và cây tích trượng, Bồ tát Địa Tạng cầm có ý nghĩa gì?


Hỏi: Kính thưa thầy, con thấy Bồ Tát Địa Tạng trong lòng bàn tay trái của Ngài có cầm hạt minh châu còn tay phải của Ngài thì cầm cây tích trượng, con không hiểu điều đó tượng trưng cho ý nghĩa gì? Kính mong thầy giải đáp cho.


Đáp: Đó là hình ảnh tượng trưng cho một ý nghĩa rất thâm sâu. Đức Bồ tát Địa Tạng mang hình ảnh của một vị xuất gia, Tỳ kheo. Trong khi đó các vị Bồ tát khác phần nhiều lại hiện thân cư sĩ. Như chúng ta đều biết, Bồ tát Địa Tạng có một thệ nguyện rất rộng lớn:

Địa ngục vị không

Thệ bất thành Phật

Chúng sanh độ tận

Phương chứng Bồ đề.


Nghĩa là:


Nếu còn một chúng sanh nào trong địa ngục, thì Ngài thệ nguyện là không thành Phật. Khi nào cứu độ hết chúng sanh, thì Ngài mới thành Phật, tức chứng quả Bồ đề. Nhưng biết bao giờ địa ngục mới trống không đây? Và làm sao có thể độ hết chúng sanh? Trong bốn loài chúng sanh (thai, noãn, thấp, hóa), chỉ riêng loài thai sanh như loài người của chúng ta thôi, thử hỏi biết bao giờ Ngài mới độ hết? Chính vì vậy mà ta thấy bản nguyện của Ngài thật là rộng lớn vô biên không thể nào suy lường được. Vì xứng theo bản nguyện độ sanh của Ngài nên hình ảnh của Ngài phải là con người giải thoát (xuất gia). Mình có giải thoát thì mới có thể độ chúng sanh được giải thoát như mình. Vì thế, nên người ta tạc tượng Ngài để tôn thờ qua hình ảnh của một con người siêu thoát. Với mục đích là để cho chúng sanh phát tâm hâm mộ để cầu Ngài độ thoát. Tuy nhiên, muốn cứu độ chúng sanh, tất nhiên phải cần đến những phương tiện. Tích trượng và minh châu là hai vật thể được tượng trưng nhằm cảnh tỉnh thức nhắc chúng sanh nên hồi quang phản chiếu lại tự tâm mình.


Tích trượng là một pháp khí thỉnh thoảng chúng ta hay thấy các nhà sư thường dùng. Đây là vật mà đức Phật và tăng đoàn thời xưa thường hay sử dụng. Xưa kia, đức Phật và các vị tăng đoàn khi đi khất thực, vai mang bình bát, tay cầm tích trượng. Tích trượng có hai công dụng:


- Một là, khi đến trước cửa nhà người, thì rung tích trượng reng reng để người trong nhà biết mà mang thức ăn ra cúng dường.


- Hai là, dùng nó trong lúc đi đường. Bởi Ấn Độ thời xưa rắn rết rất nhiều. Nhất là những con đường có cây cỏ bụi rậm um tùm nên cần phải dùng gậy xua đuổi chúng nó để khỏi bị họa hại.


Còn trên đầu tích trượng có mười hai khoen là tượng trưng cho mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên gồm có: "Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ,  hữu, sanh, lão tử". Đó là một chuỗi xích mà chúng sanh luôn bị nó trói buộc phải chịu nhiều đau khổ. Chính đức Phật là người đã giác ngộ mười hai nhân duyên nầy mà Ngài thành Phật. Từ đó, Ngài cũng đem lý nhân duyên nầy để cảnh tỉnh hóa độ chúng sanh. Nếu ai muốn giải thoát thì trước tiên cũng phải ngộ lý mười hai nhân duyên. Bồ tát Địa Tạng sở dĩ tay mặt của Ngài cầm tích trượng có mười hai khoen là nhằm nói lên cái ý nghĩa biểu trưng rằng: Ngài luôn sử dụng pháp thập nhị nhân duyên để cảnh tỉnh chúng sanh. Nhờ sự cảnh tỉnh thức nhắc của Ngài mà chúng sanh nhận được chơn lý, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi đau khổ.


Tuy nhiên, muốn thấu rõ lý nhân duyên, cần phải có ánh sáng trí tuệ. Vô minh là đầu mối của mười hai nhân duyên và cũng là đầu mối làm cho chúng sanh phải đau khổ. Vì vô minh che đậy tánh sáng suốt nên chúng sanh mới gây tạo nhiều nghiệp ác. Bởi do thiếu ánh sáng trí tuệ, nên không thấu rõ được đầu mối của vô minh. Từ đó mới có ra chấp ngã, chấp pháp. Ánh sáng trí tuệ phát khởi thì bóng tối vô minh sẽ không còn. Biểu thị cho ánh sáng trí tuệ đó là viên minh châu trong lòng bàn tay trái của đức Địa Tạng. Viên minh châu có công năng soi sáng tất cả chốn ngục hình tối tăm để cho chúng sanh nương theo ánh sáng đó mà được thoát khỏi chốn tối tăm ngục hình. Vì vậy, hễ có một niệm vô minh dấy lên thì liền đó có ánh sáng trí tuệ chiếu đến. Khi đã có trí tuệ thì vô minh không còn. Mà gốc vô minh không còn, thì những thứ ngọn ngành theo đó cũng bị phá vỡ tiêu tan. Sư biểu trưng đó nói lên ý nghĩa tu hành rất cụ thể. Bởi người tu, bất cứ tu pháp môn nào cũng phải sử dụng trí tuệ đứng đầu. Nếu không có trí tuệ thì làm sao chiếu phá vô minh? Không chiếu phá vô minh phiền não thì làm sao được giải thoát? Do đó, bên cạnh vô minh là phải có trí tuệ. Đó là một ý nghĩa tiêu biểu rất thâm huyền và cũng rất thực tế trong việc tu hành giải thoát vậy. 


b>10.  Tung kinh hộ niệm cho một người mới mất mà người đó cả đời không biết tu hành, như vậy người đó có được vãng sanh không?


Hỏi: Kính bạch thầy, hiện nay phong trào hộ niệm cho người chết rất thạnh hành, nhưng con có một thắc mắc, đối với người cả đời họ không biết tu hành ăn chay niệm Phật là gì, thậm chí họ chưa bao giờ bước chân tới chùa một lần, như vậy, khi họ chết mình tụng kinh niệm Phật cho họ, xin hỏi họ có được siêu thoát không?


Đáp: Hai chữ tu hành theo Phật tử nghĩ là người đó phải ăn chay, niệm Phật, tụng niệm, bái sám v.v... như thế mới gọi là tu hành. Ngoài ra, không phải là tu hành. Nghĩ thế không phải là sai, nhưng theo tôi, thì cũng chưa đúng hẳn hoàn toàn. Vì hai chữ tu hành nó không hạn cuộc vào những lễ nghi thông thường đó. Có người họ không hành trì như thế nhưng mà họ tu còn giỏi hay hơn chúng ta nhiều. Bởi sự tu hành tùy theo căn cơ sâu cạn và nghiệp duyên hoàn cảnh của mỗi người mà có những sự hành trì khác nhau.


Thông thường người ta thường hay chú trọng đến những lễ nghi hình thức bên ngoài nhiều hơn là phần phẩm chất nội dung bên trong. Tuy những lễ nghi hình thức bên ngoài cũng rất quan trọng và cần thiết. Nhưng chúng ta cũng không nên quá chú trọng câu nệ vào hình thức. Có người vì quá chú trọng hình thức bên ngoài mà quên mất cái chất lượng nội dung bên trong. Như những hình thức lễ nghi cúng bái tụng niệm v.v... Hình thức bên ngoài, nó chỉ có tác dụng là những phương tiện giúp cho phần khai sáng nội dung bên trong thôi. Chính vì quá chú trọng hình thức bên ngoài nên người ta có những đánh giá sai lầm. Người ta thường nói: "Chiếc áo không làm nên thầy tu". Trên nguyên tắc chúng ta đồng ý là như vậy. Tuy nhiên, nếu không có chiếc áo cũng không ai biết đó là thầy tu. Vì vậy cả hai giữa hình thức và nội dung phải được hỗ tương với nhau. Nhưng nội dung bao giờ cũng là quan trọng hơn. Nội dung đó là gì? Là chúng ta phải thường xuyên quán chiếu ở nội tâm. Câu nói: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự bất tùng tha đắc" của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy cho vua Trần Nhân Tông là nói lên cái cốt lõi của người tu. Người tu mà chỉ theo ngọn bỏ gốc thì thử hỏi làm sao đạt được đạo lý giải thoát? Cái gốc bên trong là chúng ta phải hằng gạn lọc chuyển hóa vô minh phiền não.


Vì quá chú trọng bên ngoài nên chúng ta thấy ai ăn chay, niệm Phật, đi chùa thường, thì ta cho người đó là cần mẫn tu hành. Ngược lại, thì chúng ta kết luận cho người đó không biết tu hành. Nếu chỉ đánh giá đơn thuần trên phương diện hình thức không thôi, theo tôi, thì cũng chưa hẳn đúng. Muốn đánh giá người đó có thực sự tu hành hay không, chúng ta cũng không nên vội kết luận ở bề ngoài. Mà chúng ta cần phải xét qua hai phương diện: hình thức và nội dung, rồi sau đó chúng ta mới có thể đánh giá được. Bằng không, thì sự nhận định đánh giá của chúng ta cũng dễ bị sai lệch lắm. Tôi xin đơn cử nêu ra một vài trường hợp điển hình cụ thể để Phật tử suy nghiệm.


- Có người ăn chay trường, niệm Phật, thường đi chùa và thậm chí còn dự những khóa tu học nữa, nhưng họ không kiềm chế lòng sân hận nổi lên chỉ vì giành nhau chỗ ngủ nghỉ thôi. Họ nổi nóng la ó om sòm không để ý gì đến những người bạn đồng tu chung quanh khác, mặc dù người ta đã hết lời an ủi khuyên lơn giải bày với họ. Nhưng họ vẫn một mực cố chấp và không chịu nhường nhịn. Tuy đó là một việc cỏn con nhỏ nhoi thôi, nhưng ngọn lửa sân hận của họ bốc cháy  cao độ thật khó dập tắt. Nó đốt cháy cả tim gan họ thật là đáng ghê sợ thương xót! Cổ nhân có câu nói: "Nhứt tinh chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh chi tân, bán cú phi ngôn ngô tổn bình sanh chi phước". Nghĩa là một đốm lửa nhỏ nó có thể đốt cháy cả khu rừng, nửa lời nói không phải nó làm tổn hại hết phước đức của mình. Đối với hạng người nầy, Phật tử có thể cho họ là người có tu hành không? Hay họ chỉ là người biết ăn chay, niệm Phật, và đi chùa theo tập quán của họ đó thôi.


- Có người cũng ăn chay trường, niệm Phật, đến chùa làm công quả thường xuyên, nhưng họ lại chuyên đi đâm thọc nói xấu thiên hạ ở sau lưng. Họ hết nói xấu người nầy, đến chỉ trích người kia, mục đích của họ là họ muốn ly gián làm cho hai bên nghi ngờ ngầm hại lẫn nhau. Họ gây ra một sự xáo trộn trong chúng và hiểu lầm lẫn nhau. Có thế, thì họ mới thỏa mãn cái lòng ganh tỵ giận tức đố kỵ của họ.  Họ gây cho hai đàng xích mích ly gián để họ đứng giữa được lợi. Họ là hạng người chuyên ném đá giấu tay. Quả họ là hạng người quá ư thâm độc. Đối với hạng người lòng dạ ác độc nầy, thì Phật tử đánh giá họ như thế nào? Có phải họ là người thật tâm tu hành không? Hay họ chỉ là kẻ tu giả trá bên ngoài để che mắt lừa phỉnh gạt gẫm thiên hạ?!


- Có người đang lần chuỗi niệm Phật hoặc đang gõ mõ tụng kinh, bỗng ai đó làm họ bực mình, họ ném chuỗi quăng chuông mõ đứng lên la ó chửi mắng đối phương thậm tệ. Hành động dữ dằn hung tợn của họ ai thấy cũng phải phát run sợ. Như thế, họ có thật sự tu hành hay không?


Những trường hợp xảy ra tương tự như thế còn rất nhiều không thể kể hết. Vì vậy, nếu cho rằng ăn chay, niệm Phật, đi chùa là tu hành, theo tôi, sự đánh giá đó vẫn còn hời hợt phiến diện. Muốn đánh giá một người có tu hay không, thì trước hết, chúng ta phải hiểu hai chữ tu hành là gì. Chữ "tu" có nghĩa là sửa, "hành" là làm theo cái điều mà mình đã sửa đổi. Như trước kia mình là người hay nói láo, nói xạo, nói thêu dệt, nói lời hung ác, nói lưỡi đôi chiều, đâm đầu nầy, thọc đầu kia, cho hai đàng xích mích với nhau, bây giờ biết tu mình sửa lại không nói những lời như thế nữa. Chẳng những không nói như thế thôi mà trái lại, mình còn phải nói lời chân thật. Nói lời chân thật, hòa ái, dịu dàng, đoàn kết, xây dựng, yêu thương, đó là mình đã khéo biết thật hành. Tất nhiên, là mình phải tôn trọng sự thật. Đó là đơn cử một trong những điều mà mình sửa ở nơi cái miệng, tức cái khẩu nghiệp, nói cho đúng là ngữ nghiệp.


Về thân nghiệp thì mình cũng phải sửa. Như trước kia mình hay giết hại sinh vật, bây giờ biết tu mình không giết hại sinh vật nữa. Hoặc mình hay dùng tay lấy đồ đạc, ăn giựt, ăn cướp của người ta, bây giờ mình sửa lại không làm như thế nữa, đó là mình biết tu và hành.


Nói tóm lại, tu hành là mình sửa đổi, nói đúng hơn là chuyển hóa ở nơi ba nghiệp: "thân, khẩu, ý". Từ xấu chuyển thành tốt, dở chuyển thành hay, tà chuyển thành chánh, hư chuyển thành nên v.v... Được thế, mới gọi là người biết tu hành. Trong ba cái nghiệp đó, nó có gốc ngọn, sâu cạn khác nhau. Gốc là tu ở nơi tâm, ngọn là tu ở nơi thân và miệng. Bởi hai cái nầy ở bên ngoài tương đối dễ sửa hơn. Nếu mình chuyển đổi được cái tâm xấu ác trở thành cái tâm lương thiện thì cái thân miệng cũng phải làm theo. Vì tâm là chỉ huy ra lệnh cho thân và miệng phải làm theo nó. Khác nào như tài xế điều khiển chiếc xe chớ chiếc xe không thể điều khiển tài xế. Nói rõ hơn thân và miệng chỉ là công cụ để cho tâm sai khiến mà thôi. Cho nên tu tâm mới là quan trọng. Người xưa nói:


Người đời sớm phải tri cơ

Gương lu vì bụi trăng lờ vì mây

Chở che nhờ đức cao dày

Dẫu tu cho mấy chẳng tày tu tâm.


Như vậy, sự tu hành mình không thể đánh giá ở bề ngoài được. Có người họ không ăn chay, niệm Phật ra tiếng bên ngoài, hay đi chùa thường, nhưng họ vẫn tu trong tâm họ. Như trường hợp hai người cùng gặp nghịch cảnh giống nhau, người ăn chay, niệm Phật, đi chùa, thì lại không kiềm chế được sự nóng giận bực tức của mình, ngược lại người kia tuy họ không có ăn chay, niệm Phật, đi chùa, nhưng đối trước nghịch cảnh đó, họ vẫn giữ bình tĩnh thản nhiên không lộ ra một chút sân hận bực tức buồn phiền trách móc chi cả. Trường hợp như thế, thì theo Phật tử đánh giá người nào khéo biết tu và người nào không khéo biết tu? Cho nên, người ta nói ăn chay, niệm Phật, đi chùa chưa phải là tu chính là ở điểm nầy. Tuy nhiên, việc ăn chay, niệm Phật, đi chùa, vẫn là gieo trồng được thiện nghiệp. Điều nầy không ai có thể phủ nhận được. Nhưng nếu luận về việc tu hành thì chúng ta cũng cần nên  kiểm nghiệm thẩm xét lại cho kỹ trước khi đánh giá.


Trở lại câu hỏi trên của Phật tử, tôi không thể khẳng quyết là họ có siêu thoát hay không? Bởi vì cái gì mình không thấy thì không dám nói. Tuy nhiên, nếu như thường nhựt người đó biết ăn hiền ở lành tuy họ không có ăn chay, niệm Phật, đi chùa như Phật tử đã nói, nhưng họ vẫn tu theo cái đạo làm người của họ. Nghĩa là họ vẫn có cái tâm tốt hành thiện cứu đời, giúp người. Khi sắp lâm chung họ lại được sự trợ niệm tốt của mọi người, thì theo tôi, họ cũng không đến đổi sa vào cảnh giới ác. Bởi họ không có gây nhân ác, thì làm sao họ bị chiêu cảm thọ quả báo ác? Phật tử đâu có nói họ làm ác đâu. Họ chỉ không có ăn chay, niệm Phật, đi chùa như một người Phật tử bình thường thôi. Nhưng bình thường họ vẫn tu nhân tích đức làm lành lánh dữ, thì họ cũng có thể thác sanh về cảnh giới an lành. Môi trường tái sanh của họ tùy theo chỗ tạo nghiệp lành dữ mà họ đã gây để phải chiêu cảm thọ báo. Còn việc vãng sanh về Cực lạc hay không, còn tùy thuộc vào cái cận tử nghiệp của họ. Nếu được đại chúng trợ niệm tốt, thì biết đâu họ lại khởi thiện niệm tưởng nhớ đến Phật. Ngay giây phút đó mà họ mạng chung cũng có thể được vãng sanh về Cực lạc. Vì "Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, phần nói về Hạ phẩm Hạ sinh, hạng người Ngũ nghịch Thập ác sắp đọa địa ngục a tỳ, được thiện tri thức dạy cho niệm Phật, niệm mười tiếng hoặc chỉ niệm mấy tiếng là mạng chung, cũng vẫn được Phật tiếp dẫn vãng sinh về Tây Phương" (Gia Ngôn Lục của Tổ Ấn Quang).


Qua đó, chúng ta thấy nếu một người sắp lâm chung mà họ được thiện hữu tri thức thức nhắc, cộng thêm những người thành tâm hộ niệm cho họ, ngay lúc đó mà họ hồi tâm chuyển ý chí thành niệm Phật, chỉ niệm Phật vài tiếng thôi, thì họ cũng được Phật tiếp rước vãng sanh về Cực lạc. Trường hợp như ông Trương Thiện Hòa, theo sách sử ghi lại, bình nhật ông sinh sống bằng nghề giết heo, khi sắp lâm chung tướng địa ngục hiện ra, nhưng nhờ có thiện hữu tri thức nhắc nhở và chí thành trợ niệm, nên ông thành tâm niệm mười tiếng Phật, kết quả ông cũng được vãng sanh Cực lạc. Đây là trường hợp phải nói rất là hy hữu đặc biệt. Ngoài ra không phải ai cũng đều được như thế. Bởi lúc sắp lâm chung có những điều chướng ngại khó giữ được chánh niệm. Như cơn đau nhức hoành hành, luyến ái gia sản tài vật và thân bằng quyến thuộc v.v... Kinh nói: "Niệm bất nhứt bất sanh Tịnh độ, ái bất nhiễm bất sanh Ta bà". Như thế thì làm sao có được chánh niệm mà niệm Phật? Bởi thế, nên việc trợ niệm rất là quan trọng trong giờ phút hấp hối sắp lâm chung nầy. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên đợi đến khi bệnh nặng hay sắp lâm chung rồi mới thỉnh chư Tăng, Ni và Ban trợ niệm. Người biết tu hành lo xa thì không nên ỷ lại như thế. Phần trợ niệm chỉ là trợ duyên phần nào thôi, còn được vãng sanh hay không chủ yếu vẫn là ở nơi bản thân của người đó định đoạt. Phật cũng chỉ giúp chúng ta một cánh tay thôi. Còn lại là phần tự lực gắng chí tu hành niệm Phật của chúng ta. Nếu bình nhật không lo tu hành làm lành lánh dữ, ăn chay, niệm Phật đợi đến khi đau yếu bệnh nặng hay sắp chết thì mới nghĩ tới, thì e rằng đã quá muộn màng rồi! Không có tích lũy nghiệp tốt thì cũng khó có được cái cận tử nghiệp tốt. Kính mong các hành giả Tịnh Độ nên suy xét kỹ lại điều nầy. Chúng ta không nên có tâm ỷ lại mà phải chuốc lấy tai họa về sau vậy.


11. Thờ nhiều tượng Phật và Bồ tát có sai trái gì không?


Hỏi: Kính bạch thầy, con thờ Bồ Tát Quan Âm riêng biệt trên một cái trang cao, còn ba tượng Phật: Di Đà, Dược Sư và Di Lặc thì con thờ ba Ngài chung trên một cái tủ thờ. Xin hỏi, con thờ như thế có sai trái gì không? Kính xin thầy cho con biết. Cám ơn thầy.

<


b>Đáp: Tôi xin đáp ngay là Phật tử không có gì sai trái cả. Bởi việc thờ Phật hay Bồ tát ở trong nhà là điều hợp lý và rất quý báu. Tuy nhiên, có điều nếu mình thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát trong nhà quá, thì có thể mất đi phần trang nghiêm thẩm mỹ. Như Phật tử thờ chỗ nầy, chỗ kia cao thấp khác nhau, khi tưởng niệm hay hành lễ thì mình cũng khó giữ được nhiếp tâm chánh niệm lắm. Bởi khi thì nghĩ đến Di Đà lúc lại nghĩ đến Quan Âm, rồi Dược Sư, Di Lặc v.v... Chính vì thế, nên chư Tổ mới khuyên chúng ta nên thờ trong nhà một tượng Phật hay tượng Bồ tát là đủ. Tùy theo hành giả tu tập hành trì theo pháp môn nào thì thờ Phật hay Bồ tát theo pháp môn đó cho thích hợp. Như người tu theo pháp môn Tịnh độ thì chư Tổ khuyên chúng ta nên thờ một tượng Phật Di Đà hoặc thờ tượng Tam Thánh: Di Đà, Quan Âm và Thế Chí cũng được. Bởi Đức Phật Di Đà là vị giáo chủ ở cõi Tây phương Cực lạc. Người niệm Phật với mục đích là muốn được vãng sanh về thế giới Cực lạc của Ngài. Còn hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí thì luôn hầu cận bên Đức Phật A Di Đà, với thâm ý là để trợ tuyên nhiếp hóa cùng với Đức Phật A Di Đà. Các Ngài có bản nguyện là sẽ tiếp dẫn những chúng sanh nào đủ duyên lành sanh về thế giới Cực lạc. Đó là cách thức thờ phụng của người tu theo pháp môn Tịnh độ.


Còn người tu Thiền thường thì người ta thờ tượng Phật Thích Ca. Vì Đức Phật Thích Ca tu thiền thành Phật dưới cội cây Bồ đề ở Ấn Độ. Đồng thời Ngài cũng là vị giáo chủ của cõi Ta bà nầy. Sở dĩ chư Tổ khuyên chúng ta nên thờ Phật hay Bồ tát như thế là vì các Ngài muốn cho chúng ta dễ được nhiếp tâm. Nghĩa là chúng ta chỉ chú tâm vào một nơi thôi. Như thế thì tâm hành giả dễ được an định hơn. Còn nếu chúng ta không chú tâm như thế thì sẽ không có chánh niệm. Chính cái chỗ nhiếp tâm đó mới có được cái chánh niệm. Có chánh niệm tất nhiên hành giả có an lạc, còn thất niệm tất sẽ bị đau khổ.


Tuy nhiên, người Phật tử thường có cái tâm lý cho rằng, mình thờ nhiều tượng Phật hay Bồ tát trong nhà, thì sẽ được các Ngài gia hộ nhiều. Nếu thờ một vị thì e sự gia hộ không được nhiều lắm. Thậm chí có người còn có cái quan niệm sai lầm là xem việc thờ Phật hay Bồ tát như thờ một vị thần linh. Thờ để được sự che chở phù hộ của các Ngài mà trong gia đạo luôn được bình an. Hơn nữa không có ma quỷ nào dám bén mãng tới quấy phá. Bởi các Ngài có thần lực hơn quỷ thần. Do đó mà quỷ thần phải kiêng nể kính sợ các Ngài. Thờ Phật với quan niệm như thế thì thật là sai trái.


Thậm chí có người còn lo lót hối lộ cho các Ngài bằng cách cúng cho các Ngài một vài món vật phẩm nào đó để mong cầu các Ngài phải luôn nhớ đến mà phù hộ. Thờ Phật với quan niệm như thế thì thật là tội lỗi sai lầm. Thờ như thế chẳng khác nào chúng ta đã xê dịch Ngài từ một con người ở vị trí giác ngộ chuyển Ngài sang ở vị trí thần linh và còn bắt các Ngài phải phò hộ độ trì cho chúng ta nữa. Chúng ta nên nhớ rằng, Phật hay Bồ tát các Ngài không có quyền năng thưởng phạt hay ban phước giáng họa cho ai cả. Các Ngài chỉ là những người hướng dẫn chỉ giáo cho chúng ta tu hành đúng theo con đường chánh lý để được giác ngộ và giải thoát. Chúng ta phải tin chắc vào luật nhân quả mà Phật và Bồ tát đã chỉ dạy. Là Phật tử chúng ta cần phải học hỏi giáo lý để có được trí tuệ sáng suốt biện biệt lẽ chánh tà chân ngụy cho rõ ràng. Nếu không, thì chúng ta dễ rơi vào con đường cạm bẫy tà ngoại. Cho nên chánh kiến, chánh tín đối với người Phật tử thật hết sức quan trọng. Có chánh kiến thì chúng ta mới nhận định mọi vấn đề không bị sai lầm. Chánh kiến là ngọn hải đăng soi sáng cho chúng ta đi đúng hướng chân lý.


Như vậy, chúng ta phải thờ Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa? Thờ Phật với mục đích là để chúng ta noi theo tấm gương đức hạnh từ bi trí tuệ cao cả của Ngài. Vì Phật là người đã giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Ngài luôn thể hiện một đời sống cao thượng qua những ngôn từ và hành động. Nhứt cử nhứt động đời Ngài đều đáng cho chúng ta noi gương thật hành theo. Thờ Phật trong nhà để mỗi khi chúng ta ra vô chiêm ngưỡng hình tượng Ngài mà nghĩ đến cái công ơn vị tha cao cả vĩ đại của Ngài mà chúng ta cố gắng noi gương và thật hành theo. Thật hành được phần nào thì chúng ta sẽ được lợi lạc phần đó.


Điều chúng ta cũng nên lưu ý, khi thờ Phật hay Bồ tát trong nhà  chúng ta nên thiết lập chỗ thờ các Ngài phải trang nghiêm thanh tịnh. Và cũng không nên thờ nhiều vị quá mà mất đi phần trang nghiêm thẩm mỹ như trên đã nói.


Về cách thức thờ tượng Phật và Bồ tát, như Phật tử đã nói, Phật tử thờ Thánh tượng Quan Âm ở trên trang cao, còn ba tôn tượng Phật: Di Đà, Dược Sư, Di Lặc thì thờ chung trên một cái tủ. Nếu như Phật tử thờ Thánh tượng Quan Âm ở trên ba tôn tượng: Di Đà, Dược Sư, Di Lặc, thiết nghĩ thờ như thế thì không được đúng lắm. Bởi Kinh nói, Bồ tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí là hai vị Bồ tát luôn hầu cận bên đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc. Như vậy mà Phật tử thờ Bồ tát Quan Thế Âm ở trên các Ngài thì điều đó không nên. Tôi đề nghị với Phật tử nên thờ tượng Phật Di Đà ở trên còn ba vị: Quan Âm, Dược Sư và Di Lặc thờ ngang nhau thì được.


Kính chúc Phật tử có đầy đủ niềm tin vững chắc vào Tam bảo và lý nhân quả để tu hành cho đến ngày viên thành Phật quả.


12. Đi kinh hành ba hoặc bảy vòng tượng trưng cho ý nghĩa gì?


Hỏi: Kính bạch thầy, thường thì sau giờ thọ trai trong những khóa tu cũng như ngày thọ Bát đều có đi kinh hành, có thầy nói đi kinh hành đúng ra là phải đi ba vòng hoặc bảy vòng. Tại sao phải đi đúng theo con số như thế? Và con số 3 và số 7 tượng trưng cho ý nghĩa gì? Kính mong thầy giải đáp cho chúng con hiểu.


Đáp: Trong nhà Phật có nêu ra nhiều pháp môn tu. Hành giả tự chọn cho mình một pháp môn tu thích hợp. Thích hợp với sở thích và căn cơ trình độ của mình. Tuy nhiên, dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào mục đích nhắm tới cũng là để được giác ngộ và giải thoát. Kinh hành niệm Phật cũng là một pháp môn tu. Thông thường, người tu theo pháp môn Tịnh Độ, thì sau giờ thọ trai của những khóa tu đặc biệt, hay những ngày thọ bát tại chùa, chư Tăng, Ni và Phật tử thường hay đi kinh hành niệm Phật ở điện Phật. Việc đi kinh hành nầy không phải tự ý trong chùa bày ra như vậy. Mà nó có một truyền thống lâu đời bắt nguồn từ thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế.


Tụng đọc Kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy sau khi Phật thọ trai xong, Ngài thường đi kinh hành dưới cội cây. Tuy nhiên, cách đi kinh hành của Đức Phật có khác hơn chúng ta. Bởi Phật đi kinh hành trong sự lặng lẽ để quán chiếu tư duy sâu sắc về con người và vạn hữu vũ trụ, Ngài không có niệm Phật thành tiếng như chúng ta (vì Ngài là Phật còn niệm Phật nào nữa). Còn ngày nay chúng ta đi kinh hành phải niệm Phật thành tiếng. Việc đi kinh hành nầy, theo tôi, thì nó có ba điều lợi ích:


- Thứ nhứt, là để tiêu hóa những thức ăn mà mình vừa mới thọ thực. Đây cũng là điều rất phù hợp với phương pháp vệ sinh trong việc giữ gìn sức khỏe. Bởi mới ăn no mà đi nằm nghỉ liền thì khó tiêu hóa và cũng dễ sanh ra bệnh hoạn.


- Thứ hai, vừa đi vừa niệm Phật, hành giả sẽ được tiêu nghiệp sanh phước. Đó cũng là một phương cách dễ nhiếp tâm và được nhiều công đức lợi lạc.


- Thứ ba, chúng ta đi từng bước chân vững chắc và miệng thì xưng danh hiệu Phật, một bề tưởng nhớ đến Phật không tưởng nhớ đến việc gì khác, nhờ đó mà chúng ta có được năng lượng chánh niệm và đem năng lượng chánh niệm nầy để hồi hướng cho pháp giới chúng sanh đều được hưởng chung lợi lạc thật là hữu ích.


Bất cứ việc làm nào nếu chúng ta thật hành đúng pháp thì việc làm đó chắc chắn là sẽ mang lại cho chúng ta nhiều điều hữu ích lợi lạc. Phương pháp đi kinh hành mới nhìn vào chúng ta thấy rất đơn giản, nhưng kỳ thật thì cũng hết sức quan trọng. Bởi lẽ khi đi không phải chúng ta đi nghêu ngao cho có lệ, hoặc vừa đi vừa tính toán nghĩ suy chuyện bao đồng thế gian, đi như thế thì chỉ có cái xác đi mà không có cái hồn. Nghĩa là chúng ta đi trong thất niệm, thân và tâm không hợp nhứt. Chúng ta phải đi và niệm Phật như thế nào cho tâm ta được an lạc và phát sanh trí tuệ. Đi như thế mới đúng pháp. Khi đi, chúng ta nên lưu ý mọi người phải giữ khoảng cách bước chân đều nhau. Không được đi cận kề nhau quá và cũng đừng để khoảng cách xa nhau.


Chúng ta giữ sao cứ một câu hiệu Phật A Di Đà gồm có bốn bước chân. Điều nầy mỗi hành giả cần phải được thực tập hướng dẫn đi cho đúng. Khi mọi người đi dúng rồi, thì sẽ rất nhịp nhàng và không còn cảm thấy bỡ ngỡ ngượng ngập nữa. Bước đầu chúng ta đi cảm thấy hơi khó khăn, vì chúng ta quen đi theo những bước chân ngoài đời. Đi trong vội vã và hấp tấp. Đi trong tính toán lo âu và sợ hãi. Đi đâu cũng muốn đi vội, đi nhanh, đi cho mau tới. Ngày xưa đức Thế Tôn đi từng bước chân thanh thoát, nhẹ nhàng, Ngài đi trong sự vững chãi và thảnh thơi. Không phải đi trong sự nặng nề uể oải như chúng ta. Nếu chúng ta đi nhanh đùn cục hoặc đi quá chậm tạo thành khoảng cách xa nhau rồi bấy giờ ta lại đi nhanh như chạy cho kịp, thế là vừa mất oai nghi mà cũng vừa mất luôn chánh niệm. Đi kinh hành niệm Phật cũng là một pháp tu rất lợi lạc nên chúng ta cần phải thực tập cho kỹ. Đi như thế, nhìn vào mất đi vẻ thẩm mỹ trang nghiêm. Người đi sau nhìn người đi trước và đi cho ngay hàng thẳng lối không được cong quẹo. Đó là chúng tôi nói sơ về phương cách lợi ích của việc đi kinh hành niệm Phật.


Còn Phật tử hỏi, tại sao phải đi ba vòng hoặc bảy vòng?  Xin thưa, đây cũng chỉ là một con số tượng trưng thôi. Theo trong quyển Sa Di Luật Giải do Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hành Trụ dịch, ở phần "Oai Nghi" nói về "Vào Chùa Am" có đoạn nói: "Phàm cung kính nhiễu tháp mấy vòng đều có chỗ tiêu biểu cả. Như "ba vòng" tiêu biểu cúng dường "Tam Bảo", trừ "ba độc" sạch "ba nghiệp", dứt ba đường ác đặng gặp "Tam Bảo". "Bảy vòng" trừ "tội thất chi" đặng bảy phần "Bồ Đề" v.v..." Trên đây nói nhiễu tháp cũng giống như đi kinh hành vậy. Nói trừ "Ba Độc" tức là trừ ba món "Tham, Sân, Si". Ba thứ nầy sở dĩ nói là độc, bởi chính nó là nguyên động lực thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp ác mà phải chịu nổi trôi thọ khổ trong tam đồ lục đạo. Trừ sạch ba thứ nầy thì chúng sanh sẽ hết khổ sanh tử. Còn đi bảy vòng là trừ được thất chi tội. Thất chi nghĩa là ba tội của thân: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, bốn tội của miệng: nói dối, nói lời trau chuốt, nói hai lưỡi đâm thọc, và nói lời hung ác trù rủa chửi mắng. Nói đặng bảy phần Bồ đề hay còn gọi là bảy thứ Giác chi: "Trạch pháp, tinh tấn, khinh an, hỷ, niệm, định, xả". Trạch pháp: dùng trí huệ để lựa chọn chân pháp, xả bỏ pháp hư ngụy. Tinh tấn: không lười biếng đối với việc tu hành chánh pháp. Khinh an: cảm thấy thân tâm cảm khoái an ổn. Hỷ: tâm vui mừng vì được chánh pháp. Niệm: trong tâm sáng suốt, thường nhớ thiền định và trí huệ. Định: nhập thiền định, tâm không tán loạn. Xả: tâm không thiên lệch, không chấp trước, giữ sự bình đẳng.


Xin nhắc lại, đây chỉ là những con số nêu ra tượng trưng mà thôi. Chớ không phải chỉ đi có ba vòng hay bảy vòng mà trừ hết các tội lỗi như thế. Bởi vì trong khi chúng ta đi mà nhiếp tâm niệm Phật thì ngay lúc đó thân và miệng của chúng ta đâu có tạo tội. Như vậy, thì chúng ta cũng đã trừ được những tội lỗi do thân và miệng gây ra trong lúc chúng ta đi kinh hành niệm Phật vậy.


Kính chúc Phật tử luôn tinh tấn tu hành để được tiêu tội sanh phước và chóng viên thành Phật quả.


13. Mở máy niệm Phật trong lúc nằm ngủ có tội lỗi gì không?


Hỏi: Bạch thầy, Con thường xuyên mở máy niệm Phật cho dễ ngủ, trong lúc con ngủ mê máy vẫn niệm Phật đều cho tới sáng con mới tắt. Như vậy, con có bị mang tội lỗi không? Kính mong thầy giải đáp cho con hiểu. Con kính trọng ơn thầy.


Đáp: Việc đó tuy không có tội, nhưng có cái lỗi là khinh suất. Dù vẫn biết đó là máy niệm Phật, nhưng nếu để máy niệm Phật cho mình dễ ngủ thì mình mắc phải cái lỗi là thiếu sự thành kính tha thiết chí thành trong việc niệm Phật. Đối với sự tu hành ngày nay phải nói chúng ta có quá nhiều phương tiện, tiện lợi. Làm cái gì cũng phải nhờ đến máy móc cả. Thậm chí, như Phật tử nói ngủ không được cũng phải nhờ mở máy niệm Phật cho được dễ ngủ. Phật tử thử nghĩ, những vị tu hành ngày xưa, có vị nào ngủ không được phải nhờ đến máy móc tụng kinh niệm Phật mới có thể ngủ được không? Hay là các ngài nhờ công phu tu hành đạo lực cao thâm tâm được an định mà dễ ngủ?


Ngày xưa, vì không có máy móc điện tử như chúng ta bây giờ, nên việc vận dụng công phu tu hành của các ngài rất là chí thành khẩn thiết. Các ngài không có ỷ lại như chúng ta. Vì vậy làm việc gì các ngài cũng phải hết sức chú tâm thành ý không dám khinh suất lơ là. Khi nghe pháp hay học hỏi kinh điển cũng vậy. Bởi thế nên các ngài nhớ dai và thu thập nhiều. Còn bây giờ mình ỷ lại vào máy móc nhiều quá. Khi muốn nghe pháp hoặc muốn thầy nào thuyết giảng thì cứ mở máy ra là có. Vì quá dễ dàng nên chúng ta lại sanh cái niệm coi thường khinh lờn. Nhiều khi nghe để mà nghe hoặc nghe để cho đỡ buồn chớ không mấy quan tâm theo dõi. Chính vì vậy mà chúng ta nghe nhiều nhưng rốt lại thu thập ghi nhớ chẳng có bao nhiêu. Ngược lại, đối với các ngài vì chú tâm nghe kỹ và thiết tha quý trọng học hỏi nên các ngài mới chóng được khai phát huệ tâm và tu hành chóng đạt được kết quả cao.


Còn sự tu hành của chúng ta ngày nay, vì ỷ lại vào phương tiện máy móc quá nhiều, nên kết quả không được tốt đẹp như các ngài. Sở dĩ người ta chế ra máy niệm Phật, với mục đích là nhằm để thức nhắc chúng ta hằng nhớ mà niệm Phật. Vì tâm của chúng ta hay quên và luôn phan duyên chạy theo trần cảnh, khác nào như con khỉ con vượn chuyền cây. Ngày đêm chúng chuyền nhảy lung tung lăng xăng không bao giờ đứng yên một chỗ. Tâm vọng của chúng ta cũng vậy. Không lúc nào nó đứng yên hay dừng lại. Do đó, nên cần phải có một cái thường xuyên nhắc nhở nó. Nhờ có máy niệm Phật để nhắc nhở cho mình niệm theo. Như vậy, máy niệm Phật cũng là một phương tiện tiện lợi trợ duyên rất tốt để cảnh tỉnh thức nhắc mình. Không phải người ta chế máy niệm Phật để ru cho mình ngủ đâu. Đó là tại mình lạm sử dụng không đúng cách đó thôi.


Phật tử nên xét lại, ngủ không được có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là do chúng ta suy nghĩ quá nhiều. Tiếng Anh gọi là stress nghĩa là đầu óc quá bức xúc căng thẳng. Có khi chúng ta bị một vấn đề nội kết phiền muộn nào đó, mà chúng ta chưa tháo gỡ được. Từ đó, chúng ta suy nghĩ nhiều nên thần kinh bị căng thẳng tạo thành mất ngủ. Đó là cái lỗi do chúng ta không khéo tu niệm nên để tâm chúng ta bám theo duyên trần nên mới bị như thế.


Đối với các loại máy móc điện tử ngày nay, nếu chúng ta khéo biết sử dụng thì nó cũng giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Tuy nhiên, nó có thể là con dao hai lưỡi. Lợi thì cũng có mà hại thì cũng có. Nếu chúng ta không khéo lợi dụng nó thì nó trở thành có hại khống chế chúng ta. Nó làm cho chúng ta không còn tự chủ được nữa. Nếu không muốn nói là chúng ta sẽ trở thành làm kẻ nô lệ cho nó. Chúng ta nên quan tâm cẩn trọng dè dặt để ý điểm nầy.


Việc mở máy niệm Phật của Phật tử để Phật tử nghe mà niệm theo, thì điều nầy không có gì sai trái lỗi lầm. Tuy nhiên, nếu Phật tử với dụng ý là mở máy niệm Phật để cho Phật tử dễ ngủ, theo tôi, việc làm nầy không đúng lắm. Tôi xin được góp ý với Phật tử là lần sau nếu như Phật tử có mở máy niệm Phật thì Phật tử cũng nên niệm theo máy hoặc niệm thành tiếng hay niệm thầm đều được cả. Tuy nhiên, nếu Phật tử niệm ra tiếng thì không nên nằm niệm. Bởi niệm như thế thành cái lỗi thất kính. Đấy là điều mà chư Tổ Liên Tông thường khuyên dạy. Còn nếu Phật tử niệm thầm trong tâm thì nằm niệm cũng không sao. Song có điều trong lúc niệm Phật, Phật  tử cũng nên thành tâm chí thành mà niệm. Không nên có cái ý là mở máy niệm Phật cho Phật tử dễ ngủ. Vì như thế sẽ không có lợi lạc chi cả. Còn khi Phật tử ngủ quên mà máy vẫn niệm, thì điều đó không có lỗi gì. Bởi vì nó là cái máy để lâu chỉ tốn hao pin hoặc mau hư máy đó thôi.


Nhân đây, tôi cũng xin góp chút thành ý với Phật tử. Phật Tổ thường dạy chúng ta khi niệm Phật mình phải nhiếp tâm mà niệm. Nghĩa là tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau và phải niệm mỗi chữ mỗi câu cho rành rẽ rõ ràng. Nếu khi niệm Phật mà chúng ta không niệm như thế, thì coi chừng chúng ta sẽ trở thành một cái máy niệm Phật. Vì chỉ có biết phát ra thành tiếng thôi, giống hệt như cái máy niệm Phật không khác. Cổ Đức có dạy: "Khẩu niệm Di Đà tâm tán loạn, hãm phá hầu lung dã đồ nhiên". Nghĩa là: Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, toạc hầu rách họng uổng công thôi. Phật tử nên nhớ niệm Phật là niệm tâm, tức tâm phải sáng suốt nhận rõ từng chữ từng câu. Không thể miệng niệm một đàng mà tâm nghĩ một ngã. Niệm như thế, thì làm sao tương ưng với Phật. Bởi Phật là giác, là sáng suốt, trong khi đó mình niệm mà để tâm chạy rong đâu đâu. Đó là niệm chúng sanh, niệm loạn tưởng chớ không phải là niệm Phật. Và như thế, thì việc niệm Phật của chúng ta sẽ không được lợi lạc. Bởi niệm Phật cốt là để dứt trừ phiền não để cho tâm ta được an định, chớ không phải niệm suông trên đầu môi chót lưỡi. Phật tử nên chú ý cẩn thận việc làm nầy.


Kính chúc Phật tử luôn an vui khỏe mạnh, đầy đủ tín tâm, bền chí niệm Phật và phải niệm Phật cho đúng cách thì mới có kết quả tốt đẹp được.


14. Để hai con lân dưới chân Bồ Tát Quan Thế Âm có được không?


Hỏi: Bạch thầy, chồng con đi chùa thấy 2 con lân để dưới tượng Phật Bà. Về nhà chồng con cũng mua 2 con lân để dưới chân Phật Bà, nhưng để ở trên bàn thờ, thấy vậy, con không đồng ý, nhưng chồng con lại bảo: Bộ bà không thấy trong kinh có nói sư tử Phật sao, đó cũng là một vị Bồ tát. Lời nói và việc làm như thế có sai trái gì không? Kính mong thầy hoan hỷ chỉ bảo cho con. Kính cám ơn thầy.


Đáp: Lân là một trong bốn linh vật quý, người ta thường gọi là Tứ linh, tức Long, Lân, Quy, Phụng. Theo tín ngưỡng dân gian Á Đông như tại Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam.... Lân có đầu nửa rồng, nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng. Tuy lân có mọc sừng nhưng chưa bao giờ húc ai. Do đó, người ta cho lân là hiện thân của tâm từ bi. Xét về hình thể, theo Bách Khoa Từ Điển cho rằng: "phần nhiều lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò. Thực ra trong tạo hình của người Việt chúng không tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc nầy. Chúng thường được thể hiện trong tư cách đội tòa sen làm chỗ dựa cho Văn Thù Bồ Tát hay các vị Hộ Pháp, và nhiều khi ngồi trên đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà. Trong những tư cách nầy chúng xuất hiện biểu trưng cho sức mạnh của linh vật tầng trên, cho trí tuệ và như thế chúng có khả năng kiểm soát tâm hồn những người hành hương".


Chính vì là linh vật hiền hòa tượng trưng cho từ bi nên trong chùa người ta thường hay để hai con lân bên cổng hay ở dưới chân tượng Bồ tát Quán Thế Âm như Phật tử đã nói. Đã là vật linh thiêng tượng trưng cho lòng từ bi thì để hầu bên đức Bồ Tát Quán Thế Âm cũng là chuyện hợp lý thôi. Bởi Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát đầy lòng từ bi tầm thinh cứu khổ. Đặt để như vậy thì đâu có gì là sai trái mà Phật tử không đồng ý. Tuy nhiên, nếu trên bàn thờ mà an trí như vậy thì có thể mất đi vẻ thẩm mỹ trang nghiêm. Có lẽ vì thế mà Phật tử không mấy hài lòng. Việc nầy, Phật tử có thể nên thương lượng với ông để tìm một nơi đặt để cho thích hợp. Còn ông cho rằng trong kinh có nói sư tử Phật, điều nầy có thể là ông đã hiểu lầm về từ ngữ danh xưng. Trong Kinh có nói là sư tử hống chớ tôi không thấy chỗ nào  nói là sư tử Phật. Nói sư tử hống, tức tiếng rống của con sư tử. Đây là dụ cho Phật, Bồ tát thuyết pháp tự tại vô ngại, vì các Ngài không có lo âu sợ sệt và làm cho tất cả phiền não mê lầm của chúng sinh đều tiêu trừ, ví như sư tử rống lên một tiếng thì tất cả các con thú khác đều phải khiếp đảm kinh hồn, sợ hãi chạy trốn hết.


Trong quyển nghi thức Hồng Danh Sám Hối do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra, trong đó có danh hiệu Phật là: "Sư Tử Hẩu Tự Tại Lực Vương Phật". Ý nói Phật là vua của các pháp có sức tự tại không gì ngăn ngại, giống như tiếng rống của sư tử là loài chúa tể sơn lâm vậy. Có lẽ ông nhớ không rõ nên mới nói là Sư Tử Phật. Đã là Phật sao còn nói đó là vị Bồ tát. Nói như thế thì không đúng. Phật là Phật còn Bồ tát là Bồ tát, chớ không thể nói Phật là Bồ tát được. Bởi Phật là quả vị cao tột trong các hàng Bồ tát. Bồ tát có nhiều hạng tùy theo trình độ tu chứng mà có nhiều bậc được gọi khác nhau. Đến Đẳng Giác Bồ tát là vị Bồ tát cận kề với Phật. Chỉ cần dứt sạch hết phần vi tế vô minh phiền não thì thành Diệu Giác, tức thành Phật quả.


Phật tử hỏi việc làm và lời nói của ông có sai trái không? Theo tôi, thì việc đặt kỳ lân hầu bên cạnh đức Bồ tát Quán Thế Âm thì không có gì là sai trái, chỉ thờ như thế trông có vẻ mất đi phần thẩm mỹ trang nghiêm đó thôi. Nếu ông bà thấy được thì cũng không sao. Song có điều tôi thành thật khuyên Phật tử nên tìm cách thuyết phục ông, nếu Phật tử không đồng ý cách thờ như thế. Nên vĩ hòa vi quý, đừng vì chuyện thờ một chút bất đồng ý kiến mà gây ra sự tranh cãi hơn thua với nhau thì điều đó sẽ không tốt, vì làm mất đi sự hòa khí êm ấm trong gia đình. Nếu vì thờ Phật, Bồ tát mà chúng ta lại xích mích tranh cãi hơn thua với nhau, thì chắc không có ông Phật hay vị Bồ tát nào chứng minh cho lòng ta cả. Chứng minh sao được đã thờ Phật, Bồ tát trong nhà mà tranh cãi hơn thua với nhau thì còn gì có ý nghĩa thờ phụng nữa đâu? Như vậy, Phật và Bồ Tát nhìn thấy cảnh tượng đó chắc là các Ngài thương xót đau lòng lắm! Nếu chịu khó lắng nghe cho thật kỹ, thì ta sẽ nghe Bồ Tát Quán Thế Âm than: "Hai người nầy chỉ vì hai con kỳ lân để gần mình mà chúng nó bất hòa tranh cãi hơn thua quyết liệt với nhau. Đã tốn tiền mua mà lại còn mất luôn cả tình thương yêu hòa khí với nhau, thì thử hỏi chúng nó thờ mình để làm gì?! Than ôi! thật là chua sót quá"!


Vậy tốt hơn hết là hai người nên tìm cách dung hòa với nhau. Còn lời nói của ông chẳng qua đó là cách nói để biện hộ cho việc làm của ông và ông cho như thế là đúng. Nhưng vì nhớ không rõ danh hiệu Phật nên ông mới nói ra như thế. Việc đó cũng không có gì là lỗi lầm quá đáng. Tuy nhiên, cái gì mình nhớ rõ thì nói còn bằng không thì nên tìm hiểu lại cho rõ ràng trước khi phát ngôn. Nếu nói sai lệch ý kinh điển thì điều đó gây cho người khác hiểu sai lầm mà mang tội không tốt. Bởi thế nên có câu: "Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết". Nghĩa là nếu chỉ biết y cứ vào Kinh điển mà giải thích thì e rằng sẽ oan cho ba đời chư Phật, còn nếu rời lìa Kinh điển một chữ thôi, cũng đồng với ma nói. Với lời nói nầy, Phật Tổ khuyên chúng ta nên phải hết sức cẩn thận khi giảng kinh thuyết giáo.


Kính chúc Phật tử luôn giữ hòa khí, tấn tu đạo nghiệp, chuyên cần niệm Phật, chóng đạt thành sở nguyện.


15. Ý nghĩa cúng xuất sanh như thế nào? Và tại sao phải cúng như thế?


Hỏi:  Kính thưa thầy, mỗi lần thọ trai ở quá đường, con thấy quý thầy gắp vài hạt cơm rồi thầm đọc kệ chú gì con không hiểu, sau đó có người bưng cái chung đó đem ra ngoài cúng cũng tụng đọc bài kệ và câu chú. Xin hỏi, việc làm nầy có ý nghĩa gì? Kính mong thầy hoan hỷ giải thích cho con hiểu. Kính cảm ơn thầy.


Đáp: Đây là nghi thức thọ trai cúng quá đường của chư Tăng, Ni. Theo nghi thức, thì sau khi tụng bài cúng dường đến phần "xuất sanh". Khi xuất sanh, thì thầy Duy na gắp bảy hạt cơm và tay bắt ấn cam lồ thầm đọc bài kệ và câu chú:


Pháp lực bất tư nghì

Từ bi vô chướng ngại

Thất liệp biến thập phương

Phổ thí châu sa giới

Quỷ tử mẫu khoáng dã

Thần kim sí điểu vương

Tất linh giai bảo mãn

Án độ lợi ích tóa ha (3 lần)


Tạm dịch:

Pháp lực không nghĩ bàn

Từ bi chẳng chướng ngại

Bảy hạt khắp mười phương

Cho khắp vô lượng cõi

Mẹ con quỷ đồng nội

Cánh vàng vua thần điểu

Hết thảy đều no đủ

Án độ lợi ích tóa ha (3 lần)


Ý nghĩa của bài kệ trọng tâm cũng chỉ nói lên cái tấm lòng từ bi vị tha của Phật, Bồ tát rộng lớn vô biên không có giới hạn. Khi gắp bảy hạt cơm, thì mình phải tập trung tâm ý, nghĩa là phải có chánh niệm để chú nguyện cho các loài đó. Mục đích là cho chúng được hưởng dụng ăn no đủ. Đó là pháp lực của Phật không thể nghĩ bàn. Vì có bảy hạt cơm mà bố thí châu biến pháp giới. Và tại sao phải là bảy hạt? Con số bảy nầy trong nhà Phật thường dùng lắm. Như cúng thất cũng cúng bảy ngày, Phật ra đời cũng đi bảy bước v.v... Tuy nhiên, với con số bảy nầy có nhiều thuyết luận giải khác nhau. Và người ta cho rằng không ai có thể giải thích tường tận ý nghĩa của nó được cả. Tùy theo quan niệm nhận thức hiểu biết của mỗi người mà người ta giải thích mỗi cách có khác nhau. Con số nầy không những trong nhà Phật hay thường đề cập đến mà ngay cả các lĩnh vực học thuyết khác cũng đều có đề cập đến. Bởi nó là một con số linh thiêng mầu nhiệm của vạn hữu vũ trụ. Trong nhà Phật có câu nói: "Pháp nhĩ như thị". Nó là thế ấy, xin đừng hỏi tại sao. Cũng như đừng hỏi tại sao lửa lại nóng và nước lại lạnh. Còn ấn cam lồ vì cam lồ là tượng trưng cho từ bi.


Một người tu hành, khi đã thể nhập sống trọn vẹn với bản tâm rồi, thì không thể dùng lời nói hay tâm lượng mà có thể suy nghĩ luận bàn đến được. Vì đó là cảnh giới ly ngôn, bặt hết mọi dấu vết. Sau khi chứng ngộ, thì sẽ phát sanh ra vô số diệu dụng làm lợi ích cho chúng sanh. Và những diệu dụng nầy cũng không thể suy lường được. Điều nầy với trình độ hiểu biết thô thiển hạ liệt như chúng ta thì không thể nào có thể thấu hiểu hết được?


Sau khi Thầy cả thầm đọc bài kệ và câu chú xuất sanh xong, bấy giờ chú thị giả (người hầu thầy) mới bưng cái chung (có chút nước và 7 hạt cơm) đến bàn nhỏ để cúng gọi là Tống thực. Chú thị giả tụng có âm điệu và lớn tiếng:


Đại bàng kim sí điểu


Khoáng dã quỷ thần chúng


La sát quỷ tử mẫu

Cam lồ tất sung mãn

Án mục đế tóa ha (3 lần)


Tạm dịch:

Chim đại bàng cánh vàng

Chúng quỷ thần hoang dã

Mẹ con quỷ La Sát

Cam lồ đều no đủ

Án mục đế tóa ha (3 lần)


Tôi xin giải thích đại khái qua từng câu của bài kệ đó để cho Phật tử hiểu rõ thêm.


Đại bàng kim sí điểu: Nghĩa là con chim đại bàng có cánh vàng. Kim là vàng, sí là cánh, điểu là chim. Con chim nầy, tiếng Phạn gọi là Ganruda, phiên âm Ca lâu la, còn gọi là diệu sí điểu, một loài chim thần to lớn, hung dữ có lông màu vàng. Loại chim nầy chúng hay đi kiếm loài rồng để ăn thịt. Đó là nghiệp báo của chúng. Có lần chim sí điểu đuổi bắt rồng, rồng hoảng sợ ẩn trốn dưới tòa sen của Đức Phật và nó xin Phật từ bi cứu mạng. Đức Phật dùng oai thần che chở rồng và đồng thời, Phật giảng một bài pháp cho kim sí điểu nghe, hầu để hóa giải oan gia nghiệp chướng truyền kiếp lâu đời của hai loài nầy. Sau khi nghe Phật giảng dạy thì kim sí điểu phát tâm quy y Tam bảo, trở thành một trong tám bộ chúng ủng hộ Phật pháp. Theo truyền thuyết, lúc Đức Phật thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở nói Linh Thứu thì có rất nhiều loài chim nầy đến dự nghe.


Khoáng dã quỷ thần chúng: Quỷ thần, tiếng Phạn gọi là Tavika, phiên âm A thác bạt câu, Hán dịch là "lâm nhân". Loại quỷ thần nầy chúng thường cư trú ở những nơi đồng không mông quạnh, rừng rú hoang vắng, ưa ăn thịt uống máu chúng sanh. Về sau được Đức Phật cảm hóa chúng nên chúng từ bỏ nghiệp ác và sống nhờ vào sự cúng thí thực phẩm cho chúng hưởng dụng. Cho nên Phật dạy, người xuất gia mỗi khi thọ trai phải nhớ cúng thí cho chúng. Nếu không, thì chúng phải chịu đói khát khổ sở.


La sát quỷ tử mẫu: La sát tiếng Phạn gọi là Raksha, Hán dịch là khả quý, tốc tật quỷ, hộ giả. Theo thần thoại Ấn Độ, la sát là loài ác quỷ. Nam la sát có hình thù đen thui xấu xí, tóc đỏ mắt xanh. Nữ La sát thì hình tướng xinh đẹp, quyến rũ. Loài nầy, chúng thích ăn thịt uống máu huyết tanh hôi. Chúng có thần thông thường phi hành trong hư không, đi nhanh trên mặt đất. La sát còn chỉ cho loài quỷ mang đầu trâu, ngựa coi việc trừng phạt ở địa ngục.


Quỷ tử mẫu, tiếng Phạn gọi là Hriti, Há lợi đế, Hán dịch là tử mẫu, quỷ mẹ của năm trăm quỷ con, là vợ của ác thần. Loài nầy do sân hận nên phát lời thề độc là chuyên đi tìm ăn thịt trẻ sơ sinh trong thành Vương xá, nên bị đọa thành Dược Xoa. Đức Phật vì muốn độ chúng nên dùng thần thong giấu mất đứa con mà chúng yêu quý nhất. Bấy giờ, quỷ mẹ thương nhớ con khóc la gào thét cầu khẩn van xin thảm thiết. Chúng khẩn cầu Đức Phật cứu giúp cho. Đức Phật dạy, Bà có đến 500 đứa con nay chỉ mất có một đứa, sao Bà lại đau buồn khổ lụy đến như thế? Như vậy, bà thử nghĩ những bà mẹ ở trong thành Vương xá nầy, khi mất con thì họ sẽ đau buồn khổ sở bi lụy đến như thế nào?! Quỷ mẹ nghe Phật dạy, liền tỉnh ngộ cầu xin Phật sám hối và nguyện từ nay trở đi bảo hộ những phụ nữ sanh sản và các đứa trẻ sơ sanh cho mọi người được an lành.


Cam lồ tất sung mãn: Cam lồ (lộ) tiếng Phạn là Amrta, nghĩa là sương ngọt, chỉ cho thức ăn quý báu của chư thiên. Khi ăn vào thì sẽ được trường sanh bất tử . Hai chữ cam lồ còn tượng trưng cho ý nghĩa từ bi. Dùng chất cam lồ ngọt mát để tưới tẩm xoa dịu những nỗi đau khổ cho chúng sanh. Tất sung mãn nghĩa là tràn đầy. Lòng từ bi của chư Phật, Bồ tát lúc nào cũng tràn đầy khắp cả.


Tóm lại, ý nghĩa của bài kệ trên là nói lên tấm lòng từ bi vô lượng vô biên của Đức Phật. Ngài đã dùng lòng từ bi (dụ như nước cam lồ) để hóa độ cho các loài hung dữ trở thành hiền hòa. Và những loài hung dữ nầy sau khi đã được Đức Phật hóa độ, chúng phát nguyện luôn ủng hộ Phật pháp, đồng thời còn bảo hộ cho những bà mẹ và các trẻ em sơ sanh, như mẹ La sát chẳng hạn. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải xóa tan mọi tranh chấp hận thù. Đó là ý nghĩa của việc cúng "Xuất sanh" và "Tống thực" vậy.


16. Người cư sĩ tại gia có được thuyết pháp giống như người xuất gia không?


Hỏi: Kính bạch thầy, có người nói việc thuyết pháp giảng kinh, chỉ có người xuất gia mới có thể thuyết giảng thôi, chớ còn người cư sĩ tại gia có gia đình thì không thể giảng kinh thuyết pháp được. Con không biết lời nói đó có đúng không? Xin thầy từ bi giải đáp cho con rõ.


Đáp: Người nói như thế chứng tỏ họ chưa nghiên cứu sách sử văn hóa Phật giáo ghi lại. Trong nền văn học Phật giáo đã ghi lại có rất nhiều vị cư sĩ tài ba lỗi lạc, không những họ giỏi về thế pháp mà còn lão thông về kinh điển Phật giáo nữa. Dù rằng việc thuyết pháp giảng kinh đó là vai trò trọng trách hoằng pháp lợi sinh của người xuất gia, tuy nhiên, người cư sĩ tại gia cũng có thể giảng kinh thuyết pháp như người xuất gia. Điều nầy không phải ở thời đại hiện nay, mà trong thời đại của đức Phật vẫn có các vị cư sĩ giảng kinh thuyết pháp. Điển hình như cư sĩ Duy Ma Cật chẳng hạn. Vì muốn tuyên dương giáo nghĩa đại thừa, nên Ngài hiện thân có bịnh để nói pháp quở trách phá chấp cho các hàng Thanh Văn và chúng phàm phu ngoại đạo. Việc thuyết pháp đó đã được ghi lại trong văn bản của Kinh Duy Ma. Từ đó, trải qua nhiều thời đại ở các nước Phật giáo theo hệ phái Phật giáo Phát triển, rải rác đều có ghi lại những vị cư sĩ thuyết pháp giảng đạo. Tuy những vị nầy vẫn sống đời sống tại gia có gia đình vợ con như những người khác. Tuy nhiên, họ có một đời sống đạo đức tâm linh phong phú thanh cao khác hơn người thường. Họ có những sở đắc và những hành động xuất cách phi thường mà chúng ta không thể nào đoán định được. 


Ở Việt Nam thời Trần, có Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một vị cư sĩ tài ba lỗi lạc nổi bật xuất chúng. Ngài đã từng giảng dạy cho các Tăng Ni và cư sĩ đến tham vấn về đạo lý thiền. Ở Trung Hoa, thời xưa, thì có ông cư sĩ họ Bàng cũng nổi tiếng là người chứng ngộ lý thiền và cũng đã từng xiển dương chánh pháp. Trong thời cận đại và hiện đại cũng có nhiều vị cư sĩ rất thông hiểu giáo lý và giảng dạy cho chư Tăng, Ni và cư sĩ thụ học. Trường hợp như cư sĩ bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, hay như cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền v.v... Ở Trung Hoa thì có cư sĩ Lý Bỉnh Nam là người cũng đã từng giảng giải giáo lý đạo Phật cho chư Tăng Ni và cư sĩ dự nghe. Ngoài ra, còn và còn rất nhiều những vị cư sĩ thuyết pháp giảng kinh như thế.


Như vậy, chúng ta thấy, ngoài chư Tăng, Ni những vị có khả năng thuyết pháp giảng kinh ra, bên cạnh đó, còn có rất nhiều vị cư sĩ cũng tích cực đóng góp hoằng dương Phật pháp không thua gì chư Tăng, Ni. Về mặt hoằng dương Phật pháp, không phải chỉ có giảng kinh thuyết pháp không thôi, mà người Phật tử còn thể hiện đóng góp qua nhiều lĩnh vực khía cạnh khác nữa. Trong Phẩm Pháp Sư thứ mười của Kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã minh xác quy định rất rõ về những công hạnh của một vị pháp sư truyền bá chánh pháp mà đặc biệt là Kinh Pháp Hoa. Trong Kinh có nêu ra năm hạng pháp sư:

-Hạng thứ nhứt là thọ trì kinh (Juji, thọ nhận và gìn giữ).

- Hạng thứ hai là đọc tụng kinh (doku-ju, đọc và tụng).

- Hạng thứ ba là giảng nói kinh (gesetsu, giảng nói).

Hạng thứ tư thư tả biên chép kinh (shosha, sao chép).


Trong hạng thứ hai được chia làm hai: đọc và tụng. Ta cần nên phân biệt giữa đọc và tụng khác nhau. Đọc kinh có nghĩa là cầm bổn nhìn mặt chữ mà đọc. Còn tụng là tụng thuộc lòng không cầm bổn và tụng có âm điệu trầm bổng v.v... Trên đây gọi là năm hạnh pháp sư.


Trong năm hạnh nầy, thì hạnh thọ trì là quan trọng nhất. Thọ trì không có nghĩa là mình đem kinh ra tụng đọc mà gọi là thọ trì. Đó là cái nghĩa rất cạn cợt trên bề mặt. Thọ trì nói ở đây là sau khi hành giả nhận ra (thọ) Tri Kiến Phật (nói theo kinh nầy) và hằng sống (trì) với tánh thể sáng suốt thanh tịnh đó, được vậy mới đúng nghĩa là thọ trì.


Còn hạnh thư tả biên chép, đối với ngày xưa vì kỹ thuật in ấn chưa được phát minh nên người ta chuyền tay nhau để biên chép. Trong thời hiện đại, vì kỹ thuật máy móc tối tân nên việc in ấn không còn là một vấn đề khó khăn nữa. Do đó, ngoài việc ấn hành kinh sách ra, chúng ta còn sử dụng những phương tiện tốt khác như: phim ảnh, đĩa ghi âm, máy thu băng và nhiều phương tiện thính thị khác. Đó là điều rất tiện lợi cho việc phổ biến truyền bá giáo lý Phật giáo vậy.


Nói tóm lại, không luận xuất gia hay tại gia, đứng về phương diện truyền bá chánh pháp, thì ai cũng có thể đóng góp được cả, tùy theo khả năng, hoàn cảnh và phương tiện sẵn có của mình. Riêng về mặt giảng kinh thuyết pháp, thì không phải ai cũng có thể làm được. Tất nhiên, đòi hỏi người đó phải có một kiến thức sở học uyên thâm về Phật pháp và phải có phong thái đạo hạnh tốt mới xứng đáng với tư cách của một vị giảng sư hay pháp sư. Như vậy, người cư sĩ tại gia dù có gia đình cũng vẫn có thể giảng kinh thuyết pháp được. Tuy nhiên, có điều đối với niềm tin tưởng của người Phật tử thì lại có khác. Bởi người cư sĩ dù có trình độ uyên thâm về giáo lý nhưng họ vẫn còn có đời sống ràng buộc bởi gia đình. Do đó, nên đạo hạnh của họ không thể nào so sánh với những bậc chơn tu xuất thế được. Ngoại trừ những bậc xuất trần thượng sĩ như các Ngài: Duy Ma Cật, Tuệ Trung Thượng Sĩ và Bàng Long Uẩn v.v....  Những vị nầy, chỉ là các vị Bồ tát hiện thân của một người cư sĩ để dễ cảm hóa chúng sinh mà thôi. Ngoài ra, những vị cư sĩ bình thường thì không thể nào dám so sánh với các Ngài được.


17. Tại sao tu hành mà còn dùng da bò làm trống đánh ở trong chùa?


Hỏi: Bạch thầy, lâu nay con có một thắc mắc, Phật dạy người tu hành không được sát sanh hại vật, Nhất là đối với người xuất gia tuyệt đối không được sát sanh. Thế nhưng con không hiểu tại sao trong chùa dùng trống đánh bằng da bò. Như vậy, có lỗi gì không? Và còn có lòng từ bi không? Kính mong thầy giải thích rõ cho con hiểu.

Đáp: Xin thưa ngay là không có lỗi gì cả. Trống là một trong những pháp khí mà trong chùa thường sử dụng. Thường trong chùa có hai loại trống để dùng đến trước và trong khi tụng niệm. Các loại trống nầy thường làm bằng đá, cây, đồng v.v... Xưa kia, thời của đức Phật cũng đã có sử dụng trống để báo thời gian, cảnh báo. Khi có bố tát, hoặc nghe pháp... thì dùng nó để tập họp chúng tăng. Trong Ngũ Phần Luật có ghi: "Chư Tỳ kheo bố tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn nhược đả kiền chùy nhược đả cổ..." Nghĩa là các vị Tỳ kheo bố tát, tập họp không đúng thời, Phật dạy, nên đánh kiền chùy hoặc đánh trống... Trung quốc thời xưa người ta dùng nó trong các dịp lễ lộc, vũ hội. Về kích thước của trống có nhiều loại to nhỏ khác nhau. Có loại trống to để trên giá (gọi là trống tẩu)  trống nầy được dùng để đánh bát nhã. Loại trống nhỏ người ta gọi là trống ứng (dùng nó để tán tụng) còn loại treo để đánh thì gọi là trống treo.


Sử ghi: "Từ đời Đường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau nầy Phật giáo Trung Quốc tiến thêm bước nữa là phối hợp nhịp điệu, âm thanh của tiếng trống hòa cùng những lời tán tụng, phổ thành nhạc điệu, gọi là "kỹ nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo tràng", dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính với Tam bảo".


Việc sử dụng trống chuông trong thiền môn đã trở thành rất quen thuộc của quần chúng Phật tử. Đối với hai thứ pháp khí nầy không ai còn xa lạ gì. Tuy nhiên, Phật tử thắc mắc tại sao trong chùa dùng trống đánh bằng da bò và như thế còn có lòng từ bi không?  


Xin thưa, như đã nói việc sử dụng da bò làm trống đã có từ lâu đời. Vì đây cũng là một nghề nghiệp sinh sống đã có truyền thống văn hóa lâu đời. Nghề nầy là do các nghệ nhân khéo tay có kỹ thuật về thẩm âm và thủ công cao mới có thể thực hiện tốt được. Dĩ nhiên,  điều nầy không phải do người xuất gia giết bò rồi lấy da của nó làm trống. Hiểu như thế là sai lầm. Tuy đây là việc làm của người thế gian, nhưng vì xét thấy rất hữu ích cho việc sử dụng trong chùa, cho nên nhà chùa mới dùng nó. Sở dĩ, trong chùa dùng trống, như trên đã nói là cốt để báo thời gian, cảnh báo cho đại chúng biết. Đồng thời cũng còn sử dụng trống trong việc lễ nghi tán tụng v.v...Tuy con bò đã chết đi, nhưng nó còn để lại cái tấm da mà người ta khéo biết lợi dụng dùng nó để làm lợi ích cho mọi người. Việc làm nầy đứng về mặt lợi ích hành thiện, thì rất là có ích lợi. Vì người ta dùng da của nó làm trống vừa để cảnh tỉnh người đời tỉnh thức tu hành, vừa sử dụng trong nhịp điệu tán tụng v.v... Nói chung, việc làm nầy đều nhắm vào sự lợi lạc cho mọi người. Như thế, thì sao nói là không có từ bi? Bởi vì nhờ đó mà nó càng tăng thêm phước đức. Biết đâu, nó sẽ chuyển kiếp tái sinh ở một môi trường tốt đẹp an lành khác thì sao? Như vậy, thì từ cái vô ích không có phước mà người ta làm cho nó tăng thêm hữu ích phước báo, thế thì sao dám nói là không có từ bi?


Tóm lại, việc sử dụng da bò trong nhà chùa không có lỗi gì và cũng không phải là không có từ bi.


Kính chúc Phật tử tâm Bồ đề kiên cố, chánh tín tu hành cho đến ngày viên thành Phật quả.


18. Tại sao phải tổ chức xuất gia ngắn hạn? Và ý nghĩa của việc đắp ý nâu và y vàng như thế nào?


Hỏi:  Kính bạch thầy, con xin thầy hoan hỷ giảng cho chúng con được hiểu rõ một vài vấn đề trong việc xuất gia ngắn hạn: Tại sao cạo tóc mới được đắp y vàng? còn đắp y nâu thì không cạo tóc? Mục đích của việc làm nầy như thế nào? Kính móng thầy từ bi hoan hỷ giải thích cho chúng con được rõ.


Đáp: Nói đến xuất gia là nói đến hạnh tu xuất thế. Hạnh nguyện nầy không phải dễ thật hành. Đây là noi theo hạnh tu của Phật và các thánh chúng khất sĩ thời xưa. Bởi xuất gia là người phải có chí nguyện cao cả. Phải dám từ bỏ tất cả mọi thứ dục lạc ở thế gian. Chính vì thế, nên ít có người dám sấn bước đi theo con đường nầy. Tuy nhiên, vì muốn cho các Phật tử cư sĩ tại gia gieo trồng duyên lành hạt giống xuất gia nên chư Tổ mới tạm bày ra cách xuất gia ngắn hạn. Thời gian dài ngắn không nhứt định. Có khi 10 ngày hoặc hai tuần hay một tháng tùy theo các chùa tổ chức. Thời gian các vị dự tu được xem như là tập sự theo nghi cách phẩm hạnh của người xuất gia. Nghĩa là phải hành trì tu tập giữ giới và oai nghi như một người xuất gia thực thụ.


Phật tử hỏi tại sao cạo tóc mới được đắp y vàng? Đây là tuân theo giới luật Phật chế. Một người xuất gia thọ giới Sa di, tức 10 giới thì phải cạo tóc. Dù là xuất gia tập sự ngắn hạn cũng phải như thế. Ở đời người ta quý trọng nhứt là mái tóc. Bởi thế mới có câu nói: "Cái răng cái tóc là gốc con người". Do vì quý tiếc mái tóc cho nên không ai dám đụng đến một sợi tóc. Ngược lại, khi một người phát tâm xuất gia, từ bỏ mọi thứ dục nhiễm thế gian, cho đến sự chăm sóc làm đẹp thân thể, đối với người xuất gia cũng phải từ bỏ hẳn. Tổ Quy Sơn nói: "Người xuất gia tâm hình phải khác với người đời". Hơn nữa, sự cạo râu tóc cũng là noi theo đức Phật ngày xưa. Khi vượt thành xuất gia chính Thái Tử Sĩ Đạt Ta cũng đã từng cắt tóc. Lịch sử đã ghi lại như thế.


Còn Y là pháp phục mà do đức Phật chế ra cho các Tăng, Ni mặc. Những vị chính thức được có Y là kể từ khi đã thọ giới luật. Y có nhiều loại, nhưng ở đây chúng tôi chỉ nói riêng về chiếc Y Sa di như lời Phật tử đã hỏi. Theo luật Phật chế người thọ mười giới tức là Sa di thập giới: vị nầy bắt đầu chính thức được gia nhập vào trong hàng ngũ xuất gia. Những vị thọ mười giới thì chỉ được mặc (mang) chiếc "Mạng Y" là những chiếc Y không có các mạng (miếng), tức là Y không có "Điều" như các loại Y của các vị thọ Đại giới Tỳ kheo mặc. Khi đắp Y vào để hành lễ thì có bài kệ mà người thọ giới Sa di cần phải ghi nhớ thuộc lòng. Bài kệ  như sau:


Đại tai giải thoát phục

Vô tướng phước điền y

Phi phụng trì giới hạnh

Quảng độ chư quần sanh


Nghĩa là:


Lành thay áo giải thoát

Là ruộng phước không tướng

Mặc kính đúng giới hạnh

Rộng độ hết chúng sinh


Đó là nói những vị thọ mười giới đắp Y vàng, tức Y Mạng như đã nói ở trên. Những vị nầy còn được gọi là những vị thọ giới Sa di chính thức, nhưng chưa phải là thực thụ lâu dài mà chỉ tu tập sự trong thời gian ngắn hạn mà thôi. Còn những vị đắp y màu mâu hay màu đà (hoại sắc) thì gọi là bán chính thức không có cạo tóc. Chiếc Y màu nâu nầy chỉ là một tấm vải trơn không có mạng gì cả. Dĩ nhiên là hoàn toàn khác với chiếc Y của Sa di mặc. Bởi những vị nầy chỉ là dự tu không chính thức. Thú thật, việc mặc những chiếc Y màu nâu nầy, tôi không thấy Kinh Luật nào nói đến. Theo tôi nghĩ, đây cũng là một phương tiện tốt do chư Tôn Thiền Đức bày ra nhằm mục đích khuyến khích cho những ai chưa đủ nhân duyên thế phát thọ giới Sa di để họ tập tu gieo trồng hạt giống xuất thế vậy. Dù là dự thính đắp y nâu, nhưng sự hành trì tu tập của họ trong suốt thời gian dự tu, cũng không khác gì Sa di chánh thức. Tuy nhiên, khi hành lễ, họ phải đứng sau những vị thọ giới Sa di đắp y vàng đúng theo luật Phật chế. Việc nầy cũng đáng khích lệ cho những ai muốn tập tu theo phẩm hạnh của người xuất gia. Cả hai dù chánh thức hay bán chánh thức cũng đều gieo trồng chủng duyên xuất gia rất có lợi lạc trong hiện tại và mai sau vậy.


19. Đã về Cực lạc rồi sao còn nguyện trở lại Ta bà làm gì? Như thế có chống trái không?


Hỏi: Kính bạch thầy, con nghe có thầy phục nguyện trong đó có câu là về Cực lạc chóng đắc vô sanh pháp nhẫn hoàn lai Ta bà độ tận chúng sinh. Đã sợ Ta bà khổ mới nguyện vãng sanh về Cực lạc, đã về được Cực lạc rồi còn nguyện trở lại Ta bà chi nữa. Nguyện như vậy có mâu thuẫn gì không? Kính xin thầy giải đáp cho chúng con rõ. Kính cám ơn thầy.


Đáp: Trong câu hỏi của Phật tử có ba vấn đề mà chúng tôi xét thấy cần nêu ra để tiện bề tìm hiểu:


Thứ nhứt là cụm từ "chóng đắc Vô sanh pháp nhẫn". Vì đây là lời cầu nguyện nên người cầu nguyện có ý muốn cho hương linh của người mất được vãng sanh về thế giới Cực lạc để tiếp tục tu hành và chóng được thành tựu Vô sanh pháp nhẫn. Sao gọi là Vô sanh pháp nhẫn? Vô sanh ở đây xin chớ ngộ nhận là không tái sanh trở lại, mà nó có nghĩa là: chỉ cho một thực thể " không sanh không diệt". Còn pháp nhẫn chữ nhẫn ở đây không có nghĩa là nhẫn nhịn hay chịu đựng theo cái nghĩa thông thường, mà nó có nghĩa là an trú. An trú ở đâu? Tức an trú ở nơi pháp vô sanh, bất diệt. Nói cách khác là chứng nhập ở nơi thể tánh chơn như mà thể tánh chơn như thì bất sanh bất diệt v.v... 


Thứ hai là "Hoàn lai Ta bà độ tận chúng sanh". Câu nầy có nghĩa là nguyện cho người nào đó sau khi chứng nhập vô sanh pháp nhẫn, trở lại cõi Ta bà nầy để hóa độ chúng sanh. Bởi chúng sanh ở cõi nầy còn dẫy đầy đau khổ. Người tu hành sau khi hoàn tất phần tự lợi thì phải nghĩ đến phần lợi tha. Như một sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường, thì phải đi làm một việc nào đó theo nghề nghiệp sở hành chuyên môn của mình để giúp ích cho nhơn quần xã hội. Trong khi còn nỗ lực miệt mài học hỏi ở nhà trường, thì đó là phần tự lợi. Đến khi ra trường giúp ích cho mọi người thì đó là thể hiện phần lợi tha. Đức Phật sở dĩ chúng ta gọi Ngài là Phật, bởi Ngài đã hoàn tất cả hai công hạnh: tự giác và giác tha, nên gọi Ngài là Giác hạnh viên mãn. Nghĩa là cả hai đều hoàn thành một cách viên mãn tốt đẹp.


Thứ ba, sau khi nêu ra hai phần trên, Phật tử lại nghi vấn: Tại sao đã về Cực lạc rồi mà còn nguyện trở lại Ta bà chi nữa? Nguyện như vậy có mâu thuẫn không?


Xin thưa ngay là không có gì chống trái mâu thuẫn cả. Như trên đã nói, hạnh nguyện của người tu, không phải chỉ nghĩ riêng cho mình, mà còn phải nghĩ đến làm lợi ích cho tha nhân. Nếu chỉ nghĩ đến lợi ích cho riêng mình, thì đó mới thật là ích kỷ và chống trái. Vì như thế, là trái với lòng từ bi vị tha của người tu hành theo Phật giáo. Bởi Phật giáo chủ trương là phải từ bi cứu khổ mang lại nguồn an vui hạnh phúc đến cho muôn loài. Nguyện vãng sanh về Cực lạc không có nghĩa là ở luôn bên đó mà phải trở lại cõi nầy để hóa độ chúng sinh. Vì đó là bản nguyện độ sanh của người tu. Mình được lợi lạc thì cũng muốn cho mọi người được lợi lạc như mình. Vì vậy, nên những ai đã phát nguyện vãng sanh về Cực lạc chứng được vô sanh pháp nhẫn rồi cũng đều phải hoàn lai Ta bà để phổ độ chúnh sinh. Đó là điều làm theo bản nguyện của mình chớ không có gì gọi là chống trái cả. Chống trái chăng, là khi mình được vãng sanh về Cực lạc rồi chỉ muốn an hưởng giải thoát cho riêng mình thôi, mặc cho cõi nầy ai khổ mặc ai, không một chút từ tâm đoái hoài thương tưởng, đó mới thật là chống trái. Vì trái với bản nguyện của mình và cũng trái với bản hoài độ sanh của chư Phật và Bồ tát vậy.


Thí như có người ra khỏi biển khổ lên được bờ giải thoát rồi, bấy giờ người đó nhìn lại thấy mọi người còn đang bị loi nhoi hụp lặn chết đuối chơi vơi trong biển khổ, thử hỏi người đó có nhẫn tâm nhìn ngó rồi ngoảnh mặt làm ngơ bỏ đi không? Nếu bỏ đi như thế, thì quả thật họ là một con người vô lương tâm và quá ư tàn nhẫn. Đã thế thì người đó có xứng đáng là người tu theo đạo giác ngộ giải thoát không? Hỏi tức là chúng ta đã có sẵn câu trả lời rồi vậy.