Quan Niệm của PG về Cuộc Đời và Hạnh Phúc

Thứ Ba, 25 Tháng Tư 20172:14 CH(Xem: 4513)
Quan Niệm của PG về Cuộc Đời và Hạnh Phúc
QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO VỀ CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH PHÚC

Chúng ta thấy muôn loài đều đi tìm hạnh phúc. Đạo Phật cũng thế, cùng chung với mọi người, đạo Phật đi tìm hạnh phúc. Và nếu dùng chữ 'tu hành' theo cái nghĩa để chỉ cuộc đi tìm hạnh phúc, thực hiện hạnh phúc, thì quả thật, cả nhân loại không ai mà không tu hành.


Cũng cùng một đời sống, cùng hít thở không khí, cùng ăn uống ngủ nghỉ, cùng một sinh hoạt của cuộc sống con người, thế mà chúng ta thấy có một sự khác biệt lớn lao giữa một người sống được đạo Phật và một người thường tục. Người sống được đạo Phật thì mãn nguyện, không lo sầu, thảnh thơi, thanh tịnh, tự do và an lạc:

Này ông, tâm không khổ
Với người không kỳ vọng
Mọi sợ hãi không còn
Với người kiết sử đoạn
Nhờ đoạn nhân sanh hữu
Pháp được thấy như thật
Đối chết, không sợ hãi
Nhờ gánh nặng đặt xuống
Đạo Phật ta khéo hành
Con đường khéo tu tập
Ta không có sợ chết
Khi gốc lão, bệnh diệt
Bờ kia đến, không thủ
Việc làm xong, sạch trong
Bằng lòng, thọ mạng diệt
Như thoát lò sát sanh
Pháp tánh đạt, tối thượng
Ở đời, không sở hữu
Như thoát ngôi nhà cháy
Sống chết không sầu muộn
Quá khứ, ta không có
Tương lai hiện tại, không
Các hành không thực hữu
Ở đây, than khóc gì?
Thanh tịnh pháp sanh khởi
Thanh tịnh hành tương tục
Bậc thấy được như thật
Không sợ hãi, thưa ngài.
(Trưởng lão Adhimutta)


Trong khi đó, thì cũng cùng một trời đất ấy, đất nước gió lữa ấy, mà người bình phàm thì luôn luôn tương tục mọi điều phiền não, bất loại nguyện, lo sợ, khổ đau, than khóc.


Sự khác biệt lớn lao ấy có thể nói là sự khác biệt giữa sanh tử và Niết bàn. Cũng cùng một đời sống, cũng cùng những nguyên liệu dưỡng chất trần gian, mà người thì hưởng thọ Niết bàn an lạc, người thì hưởng thọ sanh tử khổ đau. Khởi điểm cùng truy tìm cuộc đời chân thật, cùng truy tìm hạnh phúc, mà người thì đạt đến an vui vĩnh cửu, người thì loay hoay với món nợ khổ đau, đó là do sự đúng sai trong cách đặt vấn đề về cuộc sống, do sự đúng sai trong quan niệm về hạnh phúc. Đức Phật đề cập đến 3 loại quan niệm sai lầm (tà kiến). Đó là tri giác sai lầm, suy tư sai lầm và kiến thức sai lầm. Chính do sự sai lầm này dẫn dắt con người đến với khổ đau.


Chúng ta thấy muôn loài đều đi tìm hạnh phúc. Đạo Phật cũng thế, cùng chung với mọi người, đạo Phật đi tìm hạnh phúc. Và nếu dùng chữ 'tu hành' theo cái nghĩa để chỉ cuộc đi tìm hạnh phúc, thực hiện hạnh phúc, thì quả thật, cả nhân loại không ai mà không tu hành. Người thì tu hành thực hiện tiền tài, người thì tu hành thực hiện dục lạc, người thì tu hành thực hiện danh vọng, người thì tu hành thực hiện trí thức ... là những thứ mà người đời cho là hạnh phúc. Nhưng tiếc thay, vì không thấy trước tất cả những cái đó đều vô thường, vô ngã; tất cả những thứ đó đều vô nghĩa trước sự vận hành không ngừng nghỉ của cuộc đời, nghĩa là sự vận hành không ngừng nghỉ của cái chết, cho nên khổ đau, tiếc hận, không thể nắm giữ là điều tất yếu. Chúng ta nhớ lại, đức Phật Thích Ca đã từ bỏ mọi thứ (những thứ mà Ngài có hơn người đời rất nhiều kể về số lượng lẫn chất lượng) không phải vì Ngài từ bỏ hạnh phúc để đi tìm khổ hạnh (nếu nghĩ đạo Phật là sự chối bỏ hạnh phúc, tìm kiếm khổ hạnh thì chắc là đạo Phật đã không còn đến ngày nay; trái lại đạo Phật tích cực rốt ráo, là đạo diệt khổ, thực hiện an vui vĩnh cửu) mà vì Ngài thấy rằng những thứ hạnh phúc mà Ngài đang có chỉ là hạnh phúc tạm bợ đặt căn bản trên sự vô thường và vô ngã của thế gian, bởi thế Ngài bỏ tất cả để tu hành, thực hiện cái hạnh phúc tối thượng và vĩnh cửu, gọi là Niết bàn. Sự từ bỏ của đức Phật là một bài học vô giá cho thế gian, cho mỗi một thân phận con người, rằng: Hạnh phúc thì không có ở kia, ở nơi những sự vật rỗng không và tiêu hoại, mà chỉ có ở đây, trong sự thực hiện cái An Vui không còn bị điều kiện, cái mục đích tối thượng của đời người mà chúng ta có thể gọi là gì tùy theo sở thích, khuynh hướng, căn cơ: Niết bàn, Pháp thân, tánh giác, Bi Trí toàn mãn, Phật tánh, khuôn mặt xưa nay ...


Trở lại với 3 sự sai lầm ở trên, tri giác sai lầm, suy tư sai lầm và kiến thức sai lầm thì kinh điển thường đề cập đến 4 phương diện của cái thấy sai lầm:

Vô thường mà cho là Thường
Bất toại nguyện, khổ mà cho là tọai nguyện, vui
Vô ngã mà cho là ngã
Bất tịnh, xấu dơ mà cho là thanh tịnh, đẹp sạch


Do chạy đuổi theo cái thấy sai lầm đó mà có sanh tử khổ đau. Thế gian đã đặt vấn đề sai, rồi không biết giải quyết vấn đề hay giải quyết sai, từ đó duyên khởi ra một chuỗi mắt xích sai lầm vô tận. Vì không thấy được bất toại nguyện, Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã cho nên đi tìm Vui trong cái Khổ, đi tìm cái có trong cái không có, đi tìm cái thường còn trong cái niệm niệm sanh diệt, đi tìm cái ngã trong chỗ không thể nào có ngã, bèn đuổi bắt ảo vọng, rốt cuộc chỉ thấy có khổ, rỗng không, hoại diệt và bất an.


Trong khi đạo Phật thì giản dị mà sâu sắc vô cùng: ta cảm thấy đau khổ, bất an, buồn chán ư? (Khổ đế). Phải đi tìm nguyên nhân thực sự của cái khổ đó (Tập đế). Và khi thấy rõ nguyên nhân của nỗi khổ, nỗi khổ liền tan, vì không còn đất để mọc rễ. Khi thấy được nguyên nhân của khổ, thì không ai tiếp tục tự làm mình khổ, khi đã thấy cái nóng, cái bỏng là do tự mình lấy lữa châm mình thì không ai tiếp tục châm đốt mình nữa cả (Diệt đế). Quá trình giải quyết nỗi khổ, nỗi đau bấy giờ đã rõ ràng, tùy ta có thực hiện và thực hiện đến mức nào hay không (Đạo đế).


Khổ, bất toại nguyện, không làm cách gì có thể thỏa mãn, vô ích (như kinh Lăng Nghiêm nói là làm sao có thể nấu cát thành cơm; hay kinh Viên Giác nói là làm sao có thể ngồi chờ hoa đốm kết thành trái), thì đã làm người, ai cũng từng phải cảm nghiệm thấy. Nhưng nhìn thấy nỗi khổ, bất toại nguyện ở nơi bản chất của chúng chớ không hời hợt nơi hiện tượng bề mặt thì ít người thấy. Có lẽ ít trường phái triết lý nào tiếp cận được với chân lý thứ nhất của đạo Phật là Khổ đế bằng phong trào triết học hiện sinh ở châu Âu khoảng giữa thế kỷ 20.


Bằng cảm quan kinh tế của các nhà văn, bằng sự suy tư sâu sắc của các triết gia, và bằng một sự đồng cảm tế nhị, triết học hiện sinh nhìn ra tính cách khổ đế của thân phận con người; bị ném ra ngơ ngác giữa đời sống, ngẫu nhiên, hoàn cảnh giới hạn, hữu hạn tính, cuộc đời là sự hướng về cái chết, sự cô đơn không thể chia sẻ, sự bất định và mong manh của kiếp người đến độ vô ích ... Đời người cũng vô nghĩa đến độ khó chịu đựng như huyền thoại Sysiphe: suốt đời lăn tảng đá lên núi cao, tảng đá sẽ rớt xuống trở lại và rồi lại lăn lên tiếp để rồi lại rớt xuống, phải chăng đó là từng kiếp đời thất bại không thể giải thoát của con người. Vì không thấy được Tập đế, nguyên nhân của mọi phiền não, khổ đau, của hữu hạn và thất bại ở trên, và sự giải quyết rốt ráo cho thân phận con người là Diệt đế, nên các nhà hiện sinh tiến tới chọn một giải pháp sai lầm, lấy đó làm ý nghĩa cho cuộc đời. Khi thấy cuộc đời có làm gì cũng giới hạn giữa hai bờ sanh tử, khi thấy cuộc đời hữu hạn và vô ích đến độ phi lý, họ đành cho con người một quyền hạn càng nhỏ và mong manh hơn khuôn khổ của kiếp người, đó là sự nổi loạn, sự chọn lựa để biểu lộ tự do. Sự tự do trong cuộc đời hữu hạn chật hẹp vì vọng tưởng vô minh đó ắt cũng phải là một tự do nhỏ hẹp và buồn rầu. Đó là hình ảnh của người anh hùng buồn rầu hành động để chỉ thấy hành động là vô ích trong cuốn 'Thân phận con ngườí của André Malraux. Đó là khi thấy trần gian này chỉ là một chốn lưu đày (như chàng cùng tử xa xứ trong kinh Pháp Hoa), nhưng không biết quê nhà ở đâu, đành phải ngậm ngùi chấp nhận cuộc sống lưu đày là quê nhà (tác phẩm Lưu Đày và Quê Nhà của A. Camus). Thật khác xa với kinh nghiệm của Đại thừa trong cùng một lời nói: Sanh tử tức Niết bàn. Ở đây sanh tử tức Niết bàn của Đại thừa là thấy được thực tướng của sanh tử là Niết bàn, khi ấy, giả tướng sanh tử bèn tiêu mất, chỉ còn thực tướng Niết bàn đi đâu cũng là Quê Nhà.


Chúng ta thấy rằng triết học hiện sinh đã giúp con người phản tỉnh nhìn lại thân phận hữu hạn của mình với những vấn đề muôn đời của nó, đặt con người trước nỗi cô đơn và trống rỗng khi đối diện với chính mình, đặt con người trước mặt cái chết không thể trốn tránh, nhìn lại tính cách phù phiếm của mọi sự thủ hữu. Có thể nói họ đã tiếp cận được chân lý đầu tiên của đạo Phật là Khổ đế. Nhưng họ không thể đi xa hơn để thấy được nguyên nhân của khổ, tức là Tập đế, nên không thể giải quyết vấn đề cho thân phận con người (Diệt đế và Đạo đế). Do đó mà triết lý của họ trở thành bi quan, bế tắc. Bởi vì phản tỉnh để thấy được khổ, nhưng không giải quyết được khổ thì càng khổ hơn và không riêng gì triết lý hiện sinh mà cả văn chương, văn học nhân loại cũng chỉ luẩn quẩn trong vòng khổ đế.


Phải nói rằng có rất nhiều người, xưa cũng như nay, chỉ nhìn thấy Phật giáo ở giai đoạn Khổ đế này, cho nên có ý nghĩa rất sai lầm rằng Phật giáo là bi quan, yếm thế, là xuất thế, hư vô. Nếu chỉ dừng ở Khổ đế như triết học hiện sinh thì đạo Phật đã không là đạo Phật và không còn là một nguồn sống cho loài người cho tới ngày nay. Đạo Phật thì tích cực rốt ráo, vì không chỉ nêu lên thân phận trói buộc của con người, mà còn tìm ra nguyên nhân của sự trói buộc, chặt đứt trói buộc để giải phóng thật sự con người bằng một con đường tất yếu. Có lẽ vì thế mà triết lý hiện sinh với những thủ lãnh trí thức và uy tín hàng đầu của văn hóa Tây phương chỉ nở rộ được trong vài thập niên giữa thế kỷ 20 và khi đạo Phật đã có mặt thật sự ở Tây phương, thì phong trào hiện sinh ở châu Âu và thế hệ Beatle ở Bắc Mỹ đã tàn lụi nhanh chóng.


Nếu dùng danh từ hiện sinh để chỉ sự nhấn mạnh vào cuộc sống hiện tại, đến sự cụ thể thực dụng của cái đang hiện tiền, không mơ tưởng hão huyền ở một giải pháp nơi một đời nào khác, một nơi nào khác, không phóng ảnh ra một thần linh ban ơn nào khác, thì phải nói không có một thứ hiện sinh nào hơn đạo Phật, cái hiện sinh của người đã diệt khổ, chánh niệm vào hiện tại, hiện tại lạc thú:

Không hối tiếc quá khứ
Không chờ đợi tương lai
Sống vĩnh viễn hiện tại
Nên sắc thân sáng đẹp
(Tương ưng I, 6)


Đó là cái hiện sinh "Niết bàn hiện tiền" của Lục Tổ Huệ Năng: "Cứ theo lời ông nói, tức là ngoài sắc thân riêng có Pháp thân, lìa sanh diệt để cầu tịch diệt (Niết bàn), lại suy luận Niết bàn thường lạc cho là có thân thọ dụng. Đây là lầm chấp sanh tử, mê theo cái vui trần gian. Nay ông nên biết, Phật vì tất cả người mê nhận thân tướng năm uẩn là của mình, phân biệt đủ thứ pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sanh, ghét tử, niệm niệm đổi dời, không biết là mộng huyễn hư giả, uổng chịu luân hồi, lấy Niết bàn thường lạc đổi thành tướng khổ, trọn kiếp tìm cầu. Phật vì thương những người mê ấy, chỉ dạy Niết bàn chơn lạc, trong sát na không có tướng sanh, trong sát na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt nào để có thể diệt, ấy là Tịch Diệt Hiện Tiền. Chính ngay khi hiện tiền, mới gọi là thường lạc. Lạc ấy không có người thọ, cũng không có người chẳng thọ, há nói rằng Niết bàn ngăn cấm các pháp hay sao?"


(NSGN, 12/96)